Saturday, December 27, 2014

Nữ Mạng - Đinh Hợi





Sanh năm: 1947, 2007 và 2067
Cung CẤN
Mạng ỐC THƯỢNG THỔ (đất ổ tò vò)
Xương CON HEO. Tướng tinh CON DƠI


Bà Chúa Ngọc độ mạng


Đinh Hợi cung Cấn số nàng,
Đất ở dưới thấp mà leo nóc nhà.
Số sanh mùa Hạ thuận mùa,
Gái thời tốt số chồng thương nể vì.
Thổ vượng tứ quý lo chi,
Tháng chín, tháng chạp lo gì tháng ba.
Mùa Xuân Mộc khắc khô khan,
Thu Đông lỗi số sanh ra cực hoài.
Đinh Hợi số gái tài hay,
Hiền lành ngay thẳng ít ai bạo tàn.
Số người tánh nết đoan trang,
Họ hàng cốt nhục ai mà chẳng thương.
Số nàng sang quý tự nhiên,
Vận sau sẽ thấy có duyên phú hào.
Tuổi sanh cho đến niên cao,
Tự mình tự lập biết bao tuổi hờn.




CUỘC SỐNG


Tuổi Đinh Hợi, đời sống có phần sung túc về vấn đề tài lộc cũng như về tình cảm, cuộc đời không mấy chịu khổ cực về thể xác, cũng như tình cảm được lên cao. Cuộc sống có phần tốt đẹp về mọi mặt trong suốt cuộc đời. Trung vận và hậu vận có nhiều tốt đẹp.


Tóm lại: Tuổi Đinh Hợi hoàn toàn tốt đẹp về tình cảm cũng như về cuộc sống nhất là vào trung vận và hậu vận.


Tuổi Đinh Hợi số hưởng thọ trung bình từ 68 đến 79 tuổi là mức tối đa, nhưng nếu ăn ở gian ác thì sẽ bị giảm kỷ, ăn ở hiền lành thì sẽ được gia tăng niên kỷ.


TÌNH DUYÊN
Về vấn đề tình duyên, tuổi Đinh Hợi có chia ra làm ba trường hợp như sau:


Nếu sanh vào những tháng sau đây bạn sẽ có ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 4 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy, thì cuộc đời bạn có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5, 7, 8, 10 và 12 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng sau đây, cuộc đời bạn sẽ được hưởng hoàn toàn hạnh phúc, đó là nếu bạn sanh vào những tháng: 3, 6 và 11 Âm lịch.


GIA ĐẠO, CÔNG DANH
Phần gia đạo, có nhiều tốt đẹp, phần công danh chỉ ở vào mức trung bình. Trung vận thì lên cao về công danh. Nhưng vào hậu vận thì trở lại mức bình thường mà thôi.


Sự nghiệp có nhiều đổ vỡ vào tiền vận, nhưng vào trung vận thì có nhiều tốt đẹp, hoàn thành và vững chắc phải ở vào năm 37 tuổi trở đi, tiền bạc vào tiền vận có hơi bê bối, trung vận và hậu vận thì an nhàn sung sướng.


NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN
Sau đây là những tuổi hạp cho sự làm ăn của bạn, nên giao dịch về tiền bạc hay hợp tác với các tuổi sau đây thì không sợ thất bại, đó là các tuổi: Canh Dần, Nhâm Thìn, Bính Tuất.


LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG
Trong viện hôn nhơn, muốn sống một cuộc đời cao sang quyền quý, bạn nên chọn và kết hôn với những tuổi nầy: Canh Dần, Nhâm Thìn, Bính Tuất.


Những tuổi trên đây rất hạp với tuổi bạn về đường tình duyên lẫn tài lộc nên dễ tạo được cuộc sống giàu sang phú quý.


Nếu kết hôn với những tuổi sau đây, bạn có thể chỉ tạo được cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Canh Dần, Nhâm Thìn, Bính Tuất.


Những tuổi trên chỉ hạp với bạn về đường tình duyên mà lại không hạp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được cuộc sống trung bình mà thôi.


Nếu bạn kết hôn với những tuổi này, cuộc sống của bạn có thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, cuộc đời sẽ nghèo khổ triền miên, đó là nếu bạn kết hôn với các tuổi: Đinh Hợi, Kỷ Sửu, Quý Tỵ, Ất Mùi.


Những tuổi trên đây không hạp với tuổi bạn về đường tình duyên và cả về phần tài lộc, nên chỉ nghèo khổ mà thôi.


Những năm mà bạn ở vào những tuổi sau đây bạn không nên kết hôn vì kết hôn, bạn gặp cảnh xa vắng triền miên, đó là những năm mà bạn ở vào tuổi: 21, 27, 33 và 39 tuổi.


Sanh vào những tháng nầy bạn có số đa phu hay có nhiều chồng, đó là nếu sanh vào những tháng: 1, 2, 4 và 5 Âm lịch.


NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ
Sau đây là những tuổi đại kỵ trong cuộc đời, nếu kết hôn hay làm ăn thì gặp cảnh biệt ly hay tuyệt mạng giữa cuộc đời, đó là bạn kết hôn hay làm ăn với các tuổi: Mậu Tý, Giáp Ngọ, Bính Thìn, Canh Tý, Giáp Thìn và Nhâm Ngọ.


Gặp tuổi kỵ trong việc làm ăn thì không nên giao dịch nhiều về tiền bạc. Trong gia đình thì nên cúng sao giải hạn cho cả hai tuổi hằng năm.Trong vấn đề hôn nhân và hạnh phúc thì tránh việc ra mắt gia đình, thân tộc, chỉ âm thầm ăn ở với nhau mà thôi. Có như vậy thì hai người mới có thể ăn ở với nhau trọn đời được.


NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT
Tuổi Đinh Hợi có những năm khó khăn nhất là những năm ở vào số tuổi: 30, 34 và 41 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng tai nạn hay bệnh tật, có bao tài vào những năm này.


NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT
Tuổi Đinh Hợi, có những ngày, giờ và tháng xuất hành hạp nhất là ngày chẵn, tháng lẻ và giờ lẻ, xuất hành theo đúng như trên sẽ gặp nhiều may mắn, không sợ bị thất bại về tiền bạc cũng như về việc làm ăn và mọi phương diện khác trong suốt cuộc đời.


NHỮNG DIỄN TIẾN TỪNG NĂM


Từ 20 đến 25 tuổi: Thời gian này bạn sẽ gặp được nhiều tốt đẹp về vấn đề tình cảm, phần tài lộc bình thường không tạo được cơ hội về công danh và sự nghiệp.


Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, năm này làm ăn được nhưng lại kỵ tháng 8, toàn năm vẫn ở trong mức độ bình thường. Năm 27 và 28 tuổi, hai năm có nhiều trỉen vọng tốt đẹp về công danh cũng như về cuộc sống, nên cẩn thận về vấn đề tài lộc và tình cảm. Năm 29 và 30 tuổi, hai năm này cuộc sống có phần tốt đẹp về tài lộc cũng như về cuộc đời, nên đi xa thì tốt.


Từ 31 đến 35 tuổi: Thời gian này công việc làm ăn hay giao dịch tiền bạc sẽ thâu đoạt nhiều kết quả tốt đẹp về phần tài chánh, tình cảm vượng phát mạnh bạo vào tuổi 35, nên coi chừng có tai nạn trong gia đình và sự nghiệp.


Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 tuổi có phần xui xẻo, nên tránh việc giao dịch về tiền bạc, tình cảm có đôi phần xứt mẻ, cuộc sống có hơi khó khăn. Năm 37 và 38 tuổi, hai năm này việc làm ăn trung bình, không có việc gì sôi động xảy ra trong cuộc đời bạn. Năm 39 và 40 tuổi, hai năm này nên cẩn thận về tiền bạc, phần bổn mạng có suy yếu, đề phòng có đau bệnh hay hao tài tốn của vào hai năm kể trên.


Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian này rất xui xẻo cho phần tài lộc, việc làm ăn có nhiều khó khăn nên kỹ càng về tiền bạc, về gia đạo và con cái cũng nên lo lắng, gặp tai nạn trong gia đình trong những năm này, nên cẩn thận đề phòng cho lắm.


Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, nên đi xa hay hùn hạp làm ăn thì tốt. Năm 47 và 48 tuổi, hai năm này có sự xích mích về tiền bạc, nên nhịn nhục thì sẽ thâu đoạt nhiều thắng lợi về tiền bạc cũng như hoàn thành được sự nghiệp trong những năm này. Năm 49 và 50 tuổi, hai năm này có nhiều tốt đẹp, làm ăn tạo được nhiều kết quả tốt đẹp, tiền bạc được nhiều, tình cảm tốt đẹp.


Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian này, việc làm ăn và vấn đề tình cảm vẫn ở vào mức độ bình thường mà thôi, việc gia đạo và tiền bạc được ở vào mức độ trung bình mà thôi.


Từ 56 đến 60 tuổi: Thời gian này, nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về việc làm ăn, nhất là việc giao dịch về tiền bạc, không nên đi xa. Trong gia đình gặp chuyện xui xẻo cho cuộc đời bạn. Nên cẩn thận trong mọi công việc, đừng hờ hững mà có hại.

Tử vi TUỔI DẦN : Giáp Dần , Bính Dần , Mậu Dần , Canh Dần , Nhâm Dần .




Những người sinh vào năm Dần có bề ngoài hiền lành. Nhưng bạn đừng để điều đó đánh lừa, vì một con Hổ sẽ vùng dậy khi thấy cần thiết. Vốn được sinh ra để lãnh đạo nên những người sinh năm Dần luôn muốn kiểm soát mọi thứ và họ sẽ ương bướng ngang ngạnh nếu không được làm người đứng đầu.
Người tuổi Dần thường thông minh và có sức cuốn hút khiến họ luôn được mọi người yêu mến. Ít có con vật nào vừa có tình nghĩa và chu đáo, lại vừa lắm mưu mô và khó lường, mà cũng thành thật như con Hổ.





Nam Mạng - Giáp Dần

Sanh năm: 1914 đến 1974 và 2034
Cung KHÔN. Trực KHAI
Mạng ĐẠI KHÊ THÙY (nước khe lớn)
Khắc SƠN HẠ HỎA
Con nhà HẮC ĐẾ (phú quý)
Xương CON CỌP. Tướng tinh CON TRÂU

Ông Quan Đế độ mạng

Đoán xem số mạng Giáp Dần,
Đại Khê mạng Thủy nước sông chảy hoài.
Số tuổi lúc nhỏ gian nan,
Có lúc bệnh tật khóc hoài khó nuôi.
Lớn lên làm có của kho,
Có rồi lại hết sớm đầy tối vơi.
Số này phải chọn phương xa,
Lập nên cơ nghiệp vậy mà mới yên.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu,
Về


























Nữ Mạng - Giáp Dần


Sanh năm: 1914 , 1974 và 2034
Cung CẤN.
Mạng ĐẠI KHUÊ THÙY (nước khe lớn)
Xương CON CỌP. Tướng tinh CON TRÂU

Bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng

Giáp Dần số gái khôn ngoan,
Đại Khê mạng Thủy nước khe chảy dài.
Đàn bà sanh thuận Thu Đông,
Thanh nhàn sung sướng có chồng giàu sang.
Xuân Hạ sanh ra lỗi mùa,
Đêm ngày lo lắng muôn phần chẳng an.
Nhưng số vận mạng gian nan,
Tưởng đâu âm phủ đòi sanh đã rồi.
Số gái lập nghiệp phương xa,
Duyên tình trắc trở nhiều lần mới nên.
Anh em cha mẹ chẳng gần,
Ở gần sung khắc đi xa nhớ buồn.
Tiền vận có của như không,
Hậu vận tụ của gia đình ấm no.


CUỘC SỐNG
C uộc đời nhiều đau xót từ tuổi nhỏ, cho đến trọn đời cũng chưa yên phận, số chịu nhiều nỗi buồn trong suốt cuộc đời, phần tiền bạc dễ chịu tình cảm nhiều tốt đẹp.

Tuổi Giáp Dần hưởng thọ trung bình từ 57 tuổi đến 68 tuổi là mức tối đa. Nhưng nếu ăn ở có phước đức thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.


TÌNH DUYÊN
T uổi Giáp Dần về vấn đề tình duyên có chia ra ba giai đoạn như sau: Nếu sanh vào những tháng sau đây thì cuộc đời bạn sẽ có thay đổi ba lần về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 4, 9 và 12 Âm lịch. Nếu sanh vào những tháng nầy thì đời bạn sẽ có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là sanh vào những tháng: 1, 2, 5, 8 và 10 Âm lịch. Và nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc sống về vấn đề tình duyên của bạn được sống trong hạnh phúc toàn vẹn, đó là những tháng: 3, 4, 6 và 11 Âm lịch.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH
C ông danh nếu có cũng không hoàn toàn tạo được cơ hội tốt đẹp. Gia đạo được đầy đủ và yên hòa bắt đầu kể từ năm 41 tuổi sắp lên.

Về phần sự nghiệp được vững chắc. Tiền tài trong cuộc đời hay thiếu hụt, cho đến suốt cuộc đời cũng chưa chắc hưởng được hoàn toàn đầy đủ về vấn đề tiền tài một cách rộng rãi như ý muốn.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN
T rong việc làm ăn, bạn nên lựa chọn những tuổi nầy thì tốt, sự làm ăn được phát đạt và không bao giờ có xảy ra việc thất bại, đó là những tuổi hạp với tuổi Giáp Dần, gồm có: Giáp Dần đồng tuổi, Mậu Ngọ và Canh Thân. Ba tuổi nầy rất hợp với tuổi bạn trên mọi phương diện.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG
T uổi Giáp Dần kết hôn với những tuổi nầy thì sẽ được sống trong sự cao sang quyền quý, đó là các tuổi: Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Những tuổi nầy đều giúp cho tuổi Giáp Dần tạo được một cuộc sống giàu sang hạnh phúc đúng với ý muốn.

Nếu kết hôn với những tuổi nầy bạn sẽ chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Bính Thìn, Canh Tuất, Bính Ngọ.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy thì có thể cuộc sống của bạn sẽ bị nghèo khổ và khó khăn, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Kỷ Mùi, Ất Sửu, Quý Sửu, vì những tuổi nầy rất khắc kỵ về vấn đề tình duyên với tuổi bạn.

Những năm nầy bạn không nên kết hôn vì nếu kết hôn sẽ gặp cảnh xa vắng, đó là những năm ở vào tuổi: 24, 26, 30, 36, 38 và 42 tuổi.

Tuổi Giáp Dần sanh vào những tháng nầy sẽ có thể có nhiều chồng, đó là nếu sanh vào những tháng: 1, 4, 5 và 10 Âm lịch.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ
N hững tuổi nầy kỵ không nên kết hôn hay làm ăn vì có thể sẽ gặp cảnh tuyệt mạng hay biệt ly, đó là các tuổi: Ất Mão, Đinh Tỵ, Tân Dậu, Đinh Mão, Kỷ Tỵ, Kỷ Dậu.

Trong việc hôn nhân nếu đã lỡ thương yêu nhau mà gặp tuổi kỵ thì nên kết hôn một cách âm thầm, kỵ nhất là không nên làm lễ ra mắt linh đình. Trong sự làm ăn nếu gặp tuổi kỵ nên tránh giao dịch nhiều về vấn đề tiền bạc. Trong bà con thân tộc hoặc con cái nếu gặp tuổi kỵ thì phải tùy theo sao hạn từng năm của mỗi tuổi mà cúng sao giải hạn thì mới có thể sống gần nhau được. Ngoài ra, cần phải luôn luôn nhẫn nhịn về lời ăn tiếng nói với những người kỵ tuổi với mình để tránh những sự đáng tiếc có thể xảy ra.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT
T uổi Giáp Dần xuất hành vào giờ chẵn, ngày chẵn và tháng chẵn thì hạp nhứt. Việc nầy áp dụng cho suốt cuộc đời không sợ bị thất bại.
NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

T uổi Giáp Dần xuất hành vào giờ chẵn, ngày chẵn và tháng chẵn thì hạp nhứt. Việc nầy áp dụng cho suốt cuộc đời không sợ bị thất bại.

NHỮNG DIỄN TIẾN TỪNG NĂM

T ừ 20 đến 25 tuổi: Những năm nầy việc giao dịch về tiền bạc và tình cảm không được tốt đẹp cho lắm, nên cẩn thận về bổn mạng.

T ừ 26 đến 30 tuổi: Những năm nầy, bạn có nhiều số tốt, việc làm ăn có nhiều tốt đẹp về tài lộc cũng như về công danh. Những năm nầy là những năm bạn có nhiều phát triển mạnh mẽ về tài lộc.

T ừ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi khá tốt, những năm khác trung bình, việc làm ăn hay trong gia đình, sự nghiệp có nhiều kết quả về tình cảm, tài lộc lẫn công danh những năm nầy vượng phát tột độ của cuộc đời đối với tài lộc lẫn tình cảm.

T ừ 36 đến 40 tuổi: Những năm nầy việc làm ăn hay gia đình sự nghiệp không phát đạt lắm, tuy nhiên đời sống có phần sung túc, về phần gia đạo có nhiều hay đẹp. Năm nầy sanh con thì tốt sẽ phát tài to, đó là năm 37 tuổi.

T ừ 41 đến 45 tuổi: Thời gian nầy, bạn nên cẩn thận việc giao dịch về tiền bạc và có nhiều triển vọng tốt đẹp về tình cảm. Đời sống nên lo cho gia đình thì hơn, đừng nên phung phí tiền bạc. Trong những năm nầy có thể làm ăn nhỏ. Làm ăn lớn sẽ bị thất bại.

T ừ 46 đến 48 tuổi: Thời gian nầy trong gia đình thân tộc có nhiều bê bối, không nên đi xa trong thời gian nầy, cuộc sống có nhiều buồn bã và lo âu, nên tránh đi những xích mích, để hàn gắn lại việc đổ vỡ.

T ừ 49 đến 52 tuổi: Thời gian nầy, có phần êm đẹp về gia đình, sự nghiệp có phần vững chắc, gia đạo yên vui và sung sướng, nên cẩn thận về việc giao dịch về tiền bạc cũng như tình cảm.

T ừ 53 đến 55 tuổi: Năm 53 tuổi, năm nầy có khắc kỵ, gặp năm xấu, nên đề phòng bịnh hoạn và hao tài. 54 tuổi, toàn năm khá tốt, làm ăn có cơ hội phát đạt. 55 tuổi, năm nầy vững, tốt về đường tài lộc và tình cảm.

T ừ 56 đến 60 tuổi: Thời gian nầy tài lộc trung bình. Những năm nầy không được tốt về bổn mạng, nên nhờ gia đạo làm nguồn an ủi, tình cảm êm ấm, gia đạo yên hòa.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.28/12/2014.

Wednesday, December 17, 2014

Swhether you want the divergence of Buddhist studies, and we counted from Buddhist studies emerged in the centuries BCE (BC) until the eleventh century CE (ad), a total of approximately 1500 years, divided into six stages: 1. primitive Buddhist studies; 2. Buddhist Studies The sect; 3. Buddhist studies out of scraps of first period; 4. Buddhist studies Minor scraps; 5. Buddhist studies An overpaid Middle States; 6. Buddhist studies are few superfluous Australian States. The primitive Buddhist studies, is only for the doctrine is lineage from th time the Buddha and be passed to generations 3.4 superfluous after You enter the removal, the internal time Buddhism remained unclear, the thought remains consistent. Dating can be calculated as: import removal Buddha in 486 BC, outlawed 80 years, so his year of birth is in 565 BC. He became a Director in 30 years, news in 530 BC. Buddhist studies classified into The sect in more than 100 years after the Buddha entered the kill. Therefore, we can go to the dating of the first era is the year 530 BC – 370 BC. The principal doctrines of the period of Buddhist studies originally and the law. Include the two types, the Buddhist North called A transfer Function, Buddhism is called Nikàya. A function, in addition to the 4: school A jaw, jaw jaw is A Central Issue, A, increased depth of A function are also ' Tibet Issue '; Nikàya, in addition to four equal A medium function leads, there are ' Minor ' set. Northern Buddhism infused with 4 sets of equivalence is The School, Central, increasing The Depth, and The. The law, the basic content of the law is about article, then add your Favorites and glossary of pratītyasamutpāda each event, like the law in total, including 3 sets. The law and which are now being handed down have increased or reduced according to the individual perspective of each sect, in which no stars from wearing shades of each sect, if we want to find the original teachings of the Buddha, the need to conduct research and analysis in earnest. The Western scholar has dropped no less time researching about this problem, but they can not use the Chinese translation resources (material on Theravada Buddhism North passed the majority are reserved for Han Chinese to Tibet), back Pàli heavy bias, even for doing Pàli organ is the main word of the Buddha saidat this point, why not escape the prejudices. About The British Commonwealth Aó, say, taking advantage of Four Australian Defenders, the research methods of two people about scriptural Pàli is: From the law in finding out what's the discrepancy and the former, then to guess something called Buddha's teachings. This is long-gone research methodsago 40 years ago, but still affected. Also the Japanese research methods are: first, to bring the laws of the South North media reference comparison, find out what's the similarity between the northern and southern media, from which the new judge something called primitive Buddhist studies, such as Political scholar and National States already using this method. Later, production of promotion to Promote longevity beyond comparison methods compare, also uses the method, carry out specific analysis in logical structure and logic of the development of each generation of every doctrine, from there go to determine what is the primitive Buddhist studies and what is the emerge later on. Research methods of the Male has the more convincing, but also very difficult to recover the original Buddhist studies appearance. The reason is that The Buddhist sect have spent several times the mineral fertilizers, therefore, these materials also have some phen change together, influence, through simulation, constantly adding, that there are similarities, so what's the similarity, it is hard to define as Buddhist studies originally. Currently, if you want to find the original Buddhist studies from within the existing law, still problems. This chapter, written just retrieved the Buddha as the center that circulate the doctrine, which traced the problem at the heart of the problem, and further held, for that is the original Buddhist studies, this approach is not the same the methods specified on the analysis of the Western and Japanese scholars.
* * *
1. the times of Buddha Like Ca Buddha's Times Like American century's VI to V century BC. Now India society under powers of slaves, that form the national, urban, well-developed commercial sector. Not over slavery by India along the Western point are not the same, India does not have the scale of organized slavery, slaves nor compromised the heavy winners as West method, therefore, the working class slaves arises the phenomenon of violent protest Western-like. There are some who claim that the slave class, is the only form of possession of slaves in the early stages, and then stagnated at this stage, do not continue to grow. The development of society in India are: From West Indies developed gradually to the West Indies. The first is the upper Ganges River tours, gate from the India and Matches its na is the plain, where it formed the so-called ' China ' in Hindi. About VI century b.c. to the lower Gangetic, central India News, here established quite a number of countries, taking the market as the Center, some people call it the 16 countries (Tibetan Sutra Pàli, increased depth Of experience, 1 and 4, corresponding Chinese translation, Central A function, vol. 55 "Maintain economic health" of classical education in the States until the parish records are 16 na of the country). Sees the Buddha's Times Like Ca, the 16 countries, have sizable turnaround in which the ground water is gorgeous national Ma Da Masterpieces in the South Bank of the Ganges River, the Beautiful Northwest region of La, and slapped the Afterword States ("Jing Wei Ma Had" taken the country setting) the West Indies. The political situation of each country are not the same, the water under the monarchy, the country under the regime. The parliamentary regime also has the head, e.g. through a Conference, the Conference adopted a great majority of members decide, here are the remnants of the original Conference mode and save. The Republican regime exists only in the East and old Central, Coastal States, loss of La and Ca Bhikkhu la guard from peers Like Ca for. at present these countries completely destroyed (in "my duty being My" and the Buddha series onwards, all have reflected contemporaneous social situation). In the water, usually with Leanne Leanne Strain (strain modes i.e. "Ngoả was it loaded", the sense that beauty. The white-coloured Ariyan, occupied the Duchy its dominance, indigenous peoples have black skin color, is people with values, this is the Division of Indian caste). First India had only two races, later the Ariyan again classified into 4 classes: 1. La, 2. Suicide King benefit, 3. Phệ Thu 4 da la residence. La capital's working class professional help for the dominant class is close to God's favor, holding the field of culture, religion. Sees the era Like Ca, working Closely with Soles caste Brahmin expressed dissatisfaction in terms of power, his supporters thought the non-Brahmin, to form the battle lines against the Brahmin caste. Property Phệ class includes the agriculture, industrial and commercial, to bear the oppression of class 2 on very seriously. Supper being ended, the Hindi society thriving craft industries, trade fair (together the country Blames Burmese, Persian, Arabic have traded back and forth), the traders became wealthy, therefore, for the politics born of pressing requirement. The formation of the social forces, weakened politically, the ideology of caste Brahmin, that led to the society of the time appear six philosophy, is the thought of representing the working class is not the same position in society ("the only Economics Ma. E-Ðệ preparations "," A School function. My Sa Division result "-the duty to conduct Cost-all had documents relating to 6 this faction's ideology. The Minister of communications has also recorded, for example through the notes of heterogeneous communications North and South). In philosophy, the first, is to have the only ideological things, who represented the sect is A strong Cpc-Kambala Kesa Ajita, later known as the Pros That sect. This faction for four: Earth, water, wind, fire is the element of independent market exists, people and the world because of this great 4 form; do not assume that the human soul when death goes back four. The purpose of human life is traced and satisfy pleasure. This doctrine, as the international protest of Brahmin religion, who represented the working class slaves. The second Faction is the elegant Canopy Di-Sanjaya Velatthiputta, themed schools is intuitive, đôí with all the problems are no affirmation, as the issue of whether or not there is life after, yes or no to this báoẨ results for that, said there have no running, no. Therefore, it is assumed to this ideology, is sent like a real salary, Bender arena elusive. This faction advocated truth to meditate, to expectation chon TAM Chief of intelligence. In the Buddha's disciples, Maudgalyayana, Sir, and symbolism the echo comes with this study. The theory of this faction also implies opposing advocates argued, world by Breaking down metabolic which the Brahmin's Church. Sees the era "Aó meaning messages" are still admitted to general industry newspaper, reincarnation, an elegant Canopy Di attitude expressions of confidence by not confirmed nor denied. A third Faction, the loss of Makkhali Gosala-l.-elderly who have advocated destined conclusion, which does not admit having no parents, newspaper industry, austerities is nonsense, does not. Just spent 840 million great thumbs up to that time no comment is your stupid minds are freed. This faction said that human is due to the type of the element form, carries only unsophisticated patriotism. The followers of this sect for his doctrine is the Chief of staff, there are both "Pagan network Ties" even Buddhism. Sent Wednesday, is No Lan ca Romaine-Purana Kassapa. This theory with the theory of loss of old Le same, deny the evil dogma company newspapers and the Brahmin religious doctrines, advocated sex sordid tribe, brought skepticism. The followers of this theory comes from a working class slaves. Sent Thursday, three Match Pakudha Kaccayana-Da-, denying human behavior has no effect on life in the future, for that body is due to form factor 7, one of the seven factors depart, dead man running, this permanent factors far exist, only bought things. The three specified doctrine, the doctrine of the same frustrated, so often misidentify between this faction and another faction, sect 3 were the self-proclaimed "Finances denominational network", in contrast, Buddhists call them "Deviant" Pagan network. The followers of this sect, came from the working class of slaves, the doctrine has led to represent the interests of the working class is the fourth caste slaves. Sent Friday, the Ni Hopea Prince-putta-Nata Nigantha, this faction later evolved into The Interior, recommended the Church Na single meaning: first of all, bring the world categorized into two types, there are contentious and there lives; That being the network that were not freed, due by or tied career requires, so the need to prevent the exception, destroy them in order to reach liberation. This faction argue that man's newspaper industry, too, want to get newspaper career ended, need to go through ascetic practice, so the ascetic advocates. This idea, in fact maintain Brahmin's newspaper career theory. NI Hopea class from the woolen Digital Watch Soles benefit, the mother is the daughter of the King, my sister was, so it can be said the doctrine of this faction also represents the interests of the dominant class. This faction in opposition to the doctrine of the Buddha Like Ca, there has been a conflict between the two sides. This faction still maintains the Brahmin religion, but on the way out, the same Brahmin religion advocates are not the same. Race Like Ca funding not obvious, someone said to Ariyan race, i.e. Mongolia, race woman South Nepal bordering Rapti River from in North-East India. Legend says the foot abode, has a width of approximately 20 km, width 16 kilometers, the total area of about 320 square kilometres, it features 10 small towns, of which the largest is Ca Bhikkhu la defense, that this city Nhon made the country's name. As legend says, contemporary India has 16 major countries, but which were not Ca Bhikkhu la protection, can this country ever has to be independent, to remain in Overseas countries slapped la. He has ever been to this place where Xuanzang, pursuant to the "bridges of Western sign" that, the ruins of this city still exists and. .. The country has 80 thousand households, a total of 500 thousand people, according to the regime. And supper being ended, the terms of the political society is in the process of State power to rape the weak, Ca Bhikkhu la defense are being Overseas countries slapped la menace is a specific type. Ðứng prior to such a situation, Like Ca for the country of course must be responsible, how to get rid of the menace of Kieu slapped la? Net King desired naturally Sanskrit to his son is Like Ca continue to succeed, to maintain the territory's fate. But, itself Like Ca do not want national leadership succession, on the contrary, he left the Imperial Palace under academic thinkers, eventually founding his own Shifts Like the theory, spread all over the place, developed into the religion. From there, the legend about him increasing natural gods. For those this legend, there have been many research scholars and currently also has many further research, to date, the history of the life of Jesus is relatively clear. The legend of the Buddha, part is preserved in Tibetan, the majority are preserved in the Vinaya. Law, each faction has a specific Law, so the Buddha series is also not the same. Out of them the Buddha took the series called ' the Australian ', France the organ called ' menstruation ' corporate citizenship (law of this faction called "the four sections of law"). Han in the Holy room, there is a set of relatively complete stories Buddha's "administrative duty for Buddhist Sutra" consists of 16 volumes, was translated into the Sui dynasty, Buddhist story collection different from The 5. The Buddha series of laws of the denominational world records only, spice event, the leader of the Buddha, and even after the 6-year leaders, he returned to the Imperial Court, but since then his activity not seen notes, in "Buddha to learn more about menstruation" well just take notes like that. Mr. Clever Code written book "Executive Department" riveted Buddha is also based on the sources, and then write more until the Buddha enter removal (also Mr. Aśvaghoṣa wrote the chant Master of "dignified economic treatise," Australian transport glass not only a suite, which includes independent from Prince BộẨ). Like the Ca after the Scouts who follow him very organized into unions, laid out many modes, including settling mode. The existing data base, after the Buddhist leader, over the past 45 years, each location has settled notes, besides very reasonably, first, the Buddha residing in the United Kingdom is the country's capital, XA, M.a. Badri, last Monday, more than 20 years at the Property in Defence, Overseas capital was Slapped, then La., based on the material, physical narration to 45 in Germany of Buddhist culture. This, the story up about the Buddha Like Ca is true. The focus of the employment Buddhas, past work "history of Buddhist studies in Indian history", through which we can see part of the life of Mr. Australian concept as below: His early life and education in earnest, as adults to marry, bear children, 29-year-old spice, to the Ma Da Find Out broke, but without satisfaction, Director, spent 6 years of asceticism is still not satisfied, thinking he himself eventually founded the new doctrine in 35 years. From there, the Buddha began experiencing commendations rounded Dhamma, 45 years. The place where He usually says France is the Ma Da Masterpiece, Kieu Slapped La Awning and Sa, East to see the Three, West to the Ma produced fairly wide range, La. Why Prefer Ca want spice? Through the reflection in his doctrine, manifest social content like? Indian society of the time freedom of thought developed, this thinker who came from the working class Closely God's Favor is not less. In fact, there are many problems that Brahmin class do not understand are studying in class Watching God's Favor (in "Aó meaning mail" mention this problem). As related to Mental issues fell, this concept which is the reasoning of the Brahmin, but later they themselves interpreted unclear, must Closely study in God's Favor. As the doctrine of reincarnation, by the King of Baghdad be ha na God Survey class takes advantage founds, then those Three doing la the leadership for this theory developed into the theory of karma, and are seen as the secret to liturgical worship. Before such a situation, Like Ca for is as if unable to high political positions in Ca Bhikkhu la defense, the best individuals to enlist everyone in the field of academic thought. According to legend, after he was born, General engineer predicted, as if he does not do King moved to London thinker, predictions, the reflection of the time that You have to deal, only two roads were selected for academic or political. Such is the reason to Prefer American spice, there are also many different theories. As for that, He saw the suffering of the elderly, the chronic conditions and deaths, and found the life freely in Sa's subjects, leading to the introduction of him; There is also a theory that, when He saw the wife of the farmer ploughing, the species of insects are birds, but farmers wife still impassible, did not prove the deplorable before the death of a life. the spectacle, making Him move bi introspection before the death of others, and understand the meaning of impermanence. The renunciation by him is due to see the hard-gauge's and the misery of the lives of impermanence? In China, there are some sources record that, Like American life in the Imperial Court didn't feel the suffering, right out of the Imperial Palace, exposed the phenomenon of social activities, making him born the notion the world is suffering. This data, however, are not clear and authentic, but said that the farm wife is miserable, this same concept of his doctrines have similarities. For the maintenance of and response to the doctrine of Love Anthem, some sources record, the King of Qin Ba Sa La Ma da masterpiece over here very dear apparel, and Lisa property So essential to House a Religious donation commendation Chief of France. Later, He also was responding to his race, and the last Persian King, consolidating Overseas countries Slapped La confidence. Also, The Sun is also the traders as Tu to hit Most, granted she is independent from the main laboratory is notable contemporary advocates. There is the theory that, At Member Loc template lectures by a wealthy bride brings her valuable jewelry sold, cash in this lecture set. Later, The Crown went to the Property Phệ Ly, here which is the area of the parish of Na, works very hard, but He was also Chief author Alma La Defense property a donation (in the "Ma Had" mentioned the Essential this property). There is the theory that, Alma La Defense is a fake, there is the theory that a woman, regardless of how the support material which from the patrician class. In the Buddha's disciples, the opening is 5 the Bhikkhu stilts, Friday came as traders Property, he and his Skin 60 disciples to qui y Buddha. Hence, we see, the supporters of the Buddha are those of the Emperor track from favor, abundance, thus his doctrine is to represent the public, and here there is not enough evidence to answer these specific examples. Reference Books:
1. the only Cypress room: "Buddha in India that the political purpose of hexadecimal figure world", published in the ' modern Buddhist studies ', in 1960, of 6.7.
2. Exercise Entitled: "Da Buddha era India social destination of Chu thought concept scenarios", posted on the ' modern Buddhist studies ', 1956. The number 5.
3. Ðáng use of Election: "brief history of Indian philosophy", Chapter 3.4.
4. Tourism Characteristic: "brief history of Buddhism in India", Chapter 1.
* * *
2. The structure and formation of the primitive Buddhist studies. The texture primitive Buddhist studies, including two aspects in form and content. Later, the disciples of Buddha to believe and maintain two organs and laws. So, how does maintenance mode? For 45 years, The French public to honor citation, the place where He preached is relatively widespread, not only that, He also allows the student to use the local language spread, when citation definitely has a fixed method. Contemporary customs base, method of maintaining the laws is ' transmission ', relying on TV memories given to one another, most adaptable for memory is to use the form of ' Shelf ' litigation, because litigation brief medium shelf form both have sound transportation, convenient to the litigation to read and memorize. In the Vinaya of the sect, while preserving some of the material on the disciples of Buddha chanting (refer Lai Wei "Buddha Sutra primitive chant along France"), the mention of the issue as "supposed economic sufficiency" (Chinese room has single release, Pàli van, was copied in the episode), "Ba la land seizures" (Chinese translation in "out of sight, mind the comment", "Yogic counsel add comment" feature lead users, Pàli van was burned in the episode), "the Dhammapada Sutra" (Pàli, Han has a tankōbon) and so the Scriptures on the whole are used to form the shelves that litigation. The shelves of this litigation, there are a number of type with no questions answered by self (radio advice talk), there are a number of types of consultation responses. In addition, there are a number of issues such as the Buddha said my time, where and who is the audience, etc., are also recorded, calling it ' pratītyasamutpāda. ' Thus, one can say that, this form of conservation law of Economics taken ' litigation ' shelf-centered, sense of it, of course right through the explanation, i.e. continue the development. The explanation is called A Bhikkhu reached ma (Abhidharma), the meaning is ' for France '; Is the scope of the ' France ', what the explanation of ' France ' is called ' for France '. Forms for France a few kinds as below:
1. the three Priority topics dormitories (conferences), merely provides the word Buddha explained, just simply just clear, easily learn sense. This method, the Buddha himself was also used, as my "Royal charm means" in such A function, is the explanation of the Buddha for France pratītyasamutpāda. 2. Màtrka (His form), this is the method explained the key points of the full text, calling it ' the duty model ', that is, from this simple key, generated more ethically, as the mother bear. This method, some by the Buddha says, some due to Sami said. 3. Determination of the Trach, i.e. French-speaking not the same select a type, it is essentially a selection method proposed military General.
Because there is a lot of passive meaning generals alike, to determine its meaning, so divide the different categories. This approach is largely based on the number of words much less that classification, i.e. from France until the tenth French, so called France ' in the upper ' or ' French ' best Tank. The tenth French over there as ' the twelve human fate ' etc but very little. As such, this classification method, just convenient for Hong Yang Chief of France, just easy to remember.
As for the situation like that, said the storage method of Buddha's use of ' proceedings ' shelves form, followed by ' pratītyasamutpāda ', which evolved into ' A Bhikkhu reached ma '. After the destruction of the Buddhas, the form became fixed. According to the legend that, following the Buddha's removal of not long, in the United Kingdom formed by LP Above residences, there are the Scriptural aggregation consists of 500 of the Bhikkhu on stilts. Times the Angelina, as recorded in the Vinaya of the sect, the same basic content, but there are some small parts are not the same, because each set manually added or diminished. Once this aggregation, the participants the disciples of the Buddha, because you Ca Romaine chaired the Congress, Conference mode as ' reading ', that chant during the Conference to nominate a person to read the Buddha to all the Conference heard, then by the members of the General Assembly appraised. What is the Congress passed, what the Buddha said. This classic aggregation method as well as the form of the future. The content of this aggregation, according to legend, including Business and law, there's even Commentary (Abhidharma). Once the first set was the final episode and the law is what it is, but the episodes conclusion is that this cannot happen. Even after the Buddha enter kill this aggregation sailings are also the problem to determine the case, Hu is the organ treatise aggregation, but can also occur in this, especially the issue of precepts, because of the need to define the boundary conditions. Pursuant to the laws which the Ministry dispatched lineage, we can find the so-called ' primitive '; or is what is produced from the time the first episode. Classics that are the episodes in this first is A ham? Apparently is not. Because in A function that refers to a form of ' the nine ' Islam part (1. Menstruation; 2. the court application; 3. Sign of distinction; 4. Shelf litigation; 5. talk; 6. As the language; 7. the duty of birth; 8. Locate that owner; 9. The promo), according to Mr. Negative Sense (Buddhagosha) explains, we also store a Division in the Church Part 9 (written Pàli in the U.s., the Chinese room is Tibetan Issue). Therefore, we can speculate, it is very likely that the Scriptures are the episodes in the first forms of the nine Catholic section, later the editor of A new function. Editorial standards, A function. The first is based on the short length of Beijing that classified As these have long been content to A partial short in content; Cook A ham (Samyutta); the average contents in the Middle of A function; in addition, there are a large number of items on the y type small that delineateThis type is Increases for A function. The second is based on the content of that sort: As A business function, most of the content of this is referring to the issue of the layman, such as doing "the sports pod" is working with content ban 6 pagan sects; The expert explained the problem of learning, was edited into the Middle of A function; The present moral practice meditation, editor of the Magazine A ham; The content, bringing widespread propaganda-oriented editor on Increasing depth of A function. The editorial and business formation A jaw on about 100 years after the Buddha entered the kill. From then on there is quite a lot of different views about the editor A function and the law Ministry, said this disagreement firepower, by involving the transmission of redundant. According to the legend that is due to A court was due to rule, Nan's Favor Three Li read, naturally each party has its own system, and according to legend also mentions that, Mr. long Phu Na for the aggregation arises comments disagree, that comes up that, You also have a private system. The classic episode a second time, He got himself A Law Na systems. These differences, which could certainly affect the sect in Buddhism. Regarding the content of the original teachings of the Buddha, in the story of Love Lyrics mention a number of issues as follows: Liking the lyrics when the renunciation, the leader for the propagating teachings, are not left out of the context of the Survey stands to benefit. He wants to replace the Imperial Police benefit to solve the problem about the scheme in disorders of thought of contemporary society, his philosophy is philosophy's farewell (human birth of philosophy) in response to eight Brahmin philosophy, this is the replacement of his country is Ca Bhikkhu la defense to scramble the statusso that would be the title of Sakyamuni (the Ranks from clans owned Like Ca). This location, for money map his country has a sizable advantage. Such as, the age old Religious preacher usually Swear in Overseas countries slapped la, that have led to the moderate between two Overseas countries Slapped La and Ca Bhikkhu La Protection rather than be menace. Under the social caste, the doctrine of Love Anthem bring sexual orientation against materialism is a natural thing. Mr power poles oppose school contemporaries, his ideas did not go into the opposite extreme, carries moderate shades. The dress that led Him to success, as was the working class in social support, maybe even some Brahmin's ideology under Him. On the one hand, he does not approve of Leanne strain mode Brahmin, but on the other hand, He almost agrees Leanne race mode. Can we get the "Whole World" is the basis of ethics of the society of the time as a good example. In the capital is of Brahmin and States na higher education, like the Ca also retrieved 5 world do ethical standards, but not totally agree, He took the World Cup "gymnastics" as one of the 5 precepts of Brahmin changed my "don't drink alcohol". Again, as he advocated export the result, given that all things in the world which is not really there-no citation, Nirvana, but in other aspects, Like Ca for everyone high alms and maintain boundary, said that the Administration favored helping others is my happiness. Can say, practices of Love Anthem in comparison to how harsh ascetic practice, self-international fuss of Brahmin teachers have simple parts take more, so are people welcome reception, especially working class traders. Like the Ca used to consult and study the famous contemporaries, so his theory has a complete section, for he knew the inheritance and selectively or of those other theories. Therefore, his doctrine is closely related to the other doctrines of contemporary society. The contemporary doctrine of two trends: 1. Brahmin ideology, arguing that the formation of the universe is from a basic human movements to form other ones, called this novel idea in that result. Use it to steer it's farewell, the followers of this ideology took the practice of meditation centered, through meditation to recognize so-called "core staff", which can reach the scene about the rescue. 2. non-Brahmin ideology, said things because many people to this city, which incorporated called the novel "in the nucleus does not result." This doctrine is used to direct your life, then this faction split into two different factions, a highly ascetic practice, and other highly satisfied desire. Potential theory on Love Lyrics are not accepted, so the theory put forward by myself "pratītyasamutpāda", He said that the French cry together, doing the same contentious conditions of killing each other, not by a human being more results, not many people being a result that is as together as a result. The purpose of this theory is intended to run on a theoretical break "depth multiplier conclusion" of the Brahmin, tend to be atheistic conclusion, but his doctrine is not thoroughly have cracked the whole doctrine of Brahmin but you believe using the theory of "power industry", said that the effect of having a magnitude of importance in your life. The two systems theory has just reported on all retrieved ontology as a base, but the doctrine of Love Song on the basis of not mentioning the problems associated with ontology, as "endless issue 14 to sign" (written as distinguished, i.e. 14 issues not explained) that He refers: The universe is often impermanent? The universe is boundless friendship or marginal? Birth network after die or lose? Birth network and user is one or the other? and so on (the 3 categories, each divided into four issues, as usually, impermanence, impermanence, non often often Africa impermanent etc, again the type classified into two problems, a total of 14 issues.), these issues, for the contemporary scholars, the subject comes together to discussbut the private Ca, in contrast, is not subject to discussion, for the reason that these issues along with real-life human health not a doubt false relationships, as if offering them discussed, nor resolve help to humans. Thus, in cause and effect, he does not recognize the so-called "first human". The doctrine of the Love Song has it's own characteristics, as we see the doctrine of Love Anthem from beginning to end always use attitude analysis, comparison of each issue. Like right from the start between the two outlawed tendencies and austere of asceticism, He should choose the path of the two extremists, he finally chose to "middle". His middle path is to focus on real actions on international aspects, as he said that the views of the contemporary materialism advocated satisfies desire is human's purpose is not reasonable, even the harsh policy of Qianwei County e-Ni in the ascetic seclusion is also not correctIn contrast, He said that only the "middle", is the way suffering is also not new is the way the main leg. Later on, Like Ca promoted this idea into the system argument, not to advance at a party. He himself said that he is "the analysis, distinguishing" weren't the discussions favoring one party. Documents referring to this view, a way as early as "Dhammapada-Works perfect, saying," Nepal "regulatory distinction, human foot, qui removal". This is the proof that the Buddha says in the original "to distinguish false reasoning". The doctrine of Like Ca with or without an heir? Someone said that, before Gautama Buddha, Ca still has the Buddha, Buddha-like Ca Romaine, "Dhammapada" is due to the Buddhist lineage Increasing Shifts. Also someone said that, not only had a Buddhist that there all is Buddha 4. Ashoka took the 4 This Buddha makes the object of worship. Reference Books:
1. The original Scriptures of Buddha: "Only read the French chant", "Buddhist studies research", the second object.
2. "the four sections of law", vol. 54.
3. Tourism Characteristic: "brief history of Buddhism in India", Chapter 1, article 1.
4. Comb the only encyclopedia: "primitive Buddhism weak target can issue", "modern Buddhist studies" in 1956, the States 10, 1957 States 1.
* * *
3. The Location Of Buddhist studies Originally The Buddhists said that after Love Lyrics into relief, first declared the French preacher in Deer Park, calling it a Zhuan Falun. The Falun is female Indian legends, for example, that one has the ability to dominate all of India, naturally have ' protected ' rotation appears. Chou said that no move was, not nothing. If anybody is telling this, claiming to be the turning wheel Seong. When Love Ca not renunciation, he himself must choose one of the two roads, one is King Seong rotation Switch (national leader), two are doing the Falun United Kingdom (thinkers). The teachings of the Buddha called Zhuan Falun, and physical manifestations of Buddha's absolute chon TAM was enlightened. Legend, first World Religion Zhuan Falun, for 5 brothers Beautiful Death As in Deer Park, one of the three la complaint. Research from business law shows, first Love Ca says France, French is not the tetrarchy, but French Middle relief, this is in line with the truth, because 5 people which are the same ones he former ascetic austerities, then renounced life Shifts Like asceticism, leave them to think not about Him. Of course the Dhamma that The Sun told them first to the ascetic life, criticism, and theory that they advocated, then together they introduced the theory of middle relief, is the way suffering is not lost, at the same time demonstrate asceticism which are not practices chon TAM Chief, only the new China is reasonable. Then comes the doctrine of ' legitimacy ' Bowl (Chief of staff, Chief of thinking, speech, Chief Justice, Chief career networking, Chief Justice effort, mindfulness, Chief of planning), after convincing the new theoretical propaganda, the doctrine of the four emperors. The focus of the doctrine of the four emperors was presented the truth about these phenomena in human life. The entire human life not out two aspects, one is infected (gauge, files), the two are pure land (removal Guide). The French organization method of the four emperors, Imperial gauge take as the basis, the ' episodes ' is the last area of the gauge, ' kill ' is to eradicate misery, ' leader ' is the method of eliminating suffering. The Sun said France four emperors, said the French again until 3 times, 3 times was known as ' Tam Zhuan Falun '. Transfer đầulà affirmation times France tetrarchy (human birth is suffering, aging is suffering, etc.); the second switch, specify the tetrarchy is the true meaning of human life (should know, should set the removal should be certified, should leaders tu); moved last Tuesday, is proven Like Ca has seen food poisoning to achieve what the tetrarchy (as were unidentified, the set has segments, removal were, Scouts have tu.). In Zhuan Falun 3 times, each one for a base has 4 types of knowledge are not the same, calling it ' the four released generals '-the-tag, knowledgeable, intelligent, visually, so the four emperors has 12 General Administration, called the ' tetrarchy ' General Administration 12. This point of view, is the affirmation outlines features of primitive Buddhist studies. The material in the law is recorded as just presented, in about 200 years, after The Sun entered the House Ordinance removal, Ashoka retains, refers to this work as well as (under ' Ordinances ' ask the Buddhists often recite one of 7 is: "dark skin claims business wins Bhikkhu", based on the proven archaeological material, i.e. referring to tam Falun.). Later, Buddhist studies developed to Phase Out superfluous, may say as early as "the only kidney-Drug Economy", "French Economy States" etc. the preamble of the Sutra, which are addressed to France four emperors, the classics in the period of late Mahayana as "Investment-intensive Solution Suite", divides the word Buddha said the 3 timethe second time, that the Buddha said the four emperors. From there could say, tetrarchy is the Central thought of primitive Buddhism, and this has also been recognized. As part of the doctrine of the four emperors, later developed into 8 width: Birth, aging, death, depression, resentment towards the tắng, who divorced, the difference real privileged, active player aggregates. The four categories are the kind of agony belongs to nature, no one escaped, the expectation of people, often against the law, such as the elderly, are not expecting the birth etc so that being miserable. the next three are known for suffering caused by inappropriate relationships between people and people in social forms, such as caste discrimination modes of contemporary society. Those who don't mind that always have to live with each other, the people that are scattered apart, the physical requirements are usually not like that ... these were known as the gauge (From this angle, we can see, like the Ca reflect contemporary social phenomena). But ask the origin of the suffering of the people is what? Like the Ca for the ' Prime ' any bridge. Why would that not be the cause of suffering? Like the American back to that, because by ' 5 player aggregates ', i.e. He analyzed the constituent people by 5th type: Sac--material, tho-love sensation (called love), idea-physical activity-the names of concepts (known as position), action-is the activity of the will (called in Italy), the formula-unified-front type stuff. The content of this very type of c a is complex, the achievement of these things called ' aggregates ', the 5 aggregates together with ' Prime ' (the only kind of desire and accept the previous) joined together, which spawned a kind of sexual reference, so for so called ' team player ' aggregates. View of base Like Ca, people born between five aggregates, five aggregates that is to gauge, so to should call the 5 aggregates is suffering. The origin of this suffering by taking exercise (exercise racks) that being, the minus, the reference news snippets except the agony (kill pylon), successively be freed. In the doctrine of the four emperors Like Ca, pratītyasamutpāda is characteristic through the expression of dissent with the philosophical system of the universe. When Like Ca and in the Indian, there were two types of thought directed Nhon life birth: 1. la, they said that human being, Brahma is the metabolism of God falls, called it a novel ' metabolism '. 2. Six philosophy, they said that the man is due to many factors combine that into (the Agreement's advocates dispatched), called it a novel ' accumulate '. Like this doctrine 2 protest Anthem, starter charm ' future owners '. He said that the phenomenal world is the intimate relationship of cause and effect, the same as conditions for each other in existence. In the Buddhist scriptures are often retrieved the bundle structure as an example to present the relation of all things. As if taking this point of view, explain the phenomenon of the universe, the presentation rules of existence of the universe is pratītyasamutpāda, like very specifically and dialectic. But the theory of pratītyasamutpāda, not derived from cosmological observations, which were discovered across the human life, and took it as a place to stand the basis to solve the problems of the human being. Like the Ca provides people divided into many parts. According to the notes in section 9, section consists of 5 sections, 12 .10 parts etc, especially North of the divide at most 12 parts, 12 coast guard personnel called it, later Mahayana Buddhism fixed 12 human fate, i.e. ignorance, Executive, formal, beautiful colors, green added, exposed, tho, who, player, owner, being, Lao Tzu. This texture is ignorance do Coast Guard led to depart. So which has the formula: "try the owner tried to Belgium owner, try being the Belgian issue of birth". Based on this order, constitutes the cause and effect relationship. The following 12 human fate and reincarnation into fusion tam so thoroughly coincide causation of Minor scraps: past the ' entertainment '--current world ' result, entertainment '-the afterlife ' result '. The theory of ' hermaphrodite ' jibe for An overpaid: past the ' entertainment '--current world ' result ', or is the current ' human '-the afterlife ' result '. This theory is somewhat justified, since in the phenomenon, which is the relationship 2 years, on this principle, we can find its cause and effect relationships. Countries such as the Lao Tzu, is the fundamental cause of the fruit, it is the ' birth '. According to the notes of the classics, like the Ca a murderer being, starting from premature aging, death and human reasoning 12 pubs ' fate. During the tetrarchy emperors set of reference taking centered 12 coast guard personnel took the craving as the basis, as if wanting to be freed prior to the minus craving. Like the Ca said, craving is immensely, I never enough, on the contrary, wholeheartedly wishes of the mermaid i then incredibly, that this desire is the cause engenders suffering. Like the Ca for the behaviour and the human resources industry is closely related. ' Travel ' is the will to act has the aim of man, the nature of it's business. ' Career ' comes in 3 types: User, password, and Italy, if we try to put the issue, something the decision into industry? Answer of course was due to ' senseless ' ignorance. What senseless beings? Like human beings, is the anthem for which is impermanent, but being asked to ' often ', this is the ' senseless ' ignorance. Human beings are anatta, because it had no living being, thus there is no self, just like home due to last year's, from bricks, trees, stone mix that up, too, people by skandha incorporated that into, whereas beings accept in advance that it's falling, this is called ' ignorance '. Being due by the type of this senseless action initiation that led, is the source of suffering. Like human beings, justifying the Ca is the ' impermanence ' ' anatta ', from which the proposed clauses 3: Administrative Client (only useful micro-France) impermanence, egolessness French, all of which are gauge. Three of this clause called ' three generals ', also called ' Indian ' French Freemasons. In addition to this General tam, adding a further net Presidents ' Nirvana ' is known as ' French Quarter ' Indies. For that, the impermanence, egolessness including gauge, so ' go ' gauge, still left Three French publications. ' Indian ' French Freemasons retrieved pratītyasamutpāda as a basis for development. Pratītyasamutpāda includes two aspects ' pros ' and ' fun '. Agreement is only for the produce unhappiness, the inverse is just the direction to Nirvana. Like American say, who understood him, pratītyasamutpāda out ' France '. Have to say, the theory of pratītyasamutpāda is characteristic of Buddhism. However, there are some problems like the Ca has not clearly explained, such as the theoretical framing pratītyasamutpāda, Like Ca just aimed at demonstration of the phenomenon in human life, not focusing on these other purposes, but it can also explain other phenomena, such as through providing this common principle turns onlyThus presume will be the conversion of its texture and ideal Nirvana. For example, like the Ca one side denies the existence the ego, and acknowledge the effects of career resources. Brahmin's karma theory is a combination of reincarnation, but Like Ca denied the subject reincarnation, then take anything to reincarnation? This is a matter of internal conflict of doctrines Like Ca. for that reason, on, who inherited his ideology arose heterogeneous development of thought. Like the Ca was the London scenes, his theory of industrial resources are also very specific expression. His life much of the time in Overseas countries in Slapping La, has twice prevented the attacking King Bhikkhu Yuri went with the last shift, Like clan from fine out Like American family died out. In addition, Mr. for Brahmin religion, race modes, which embodies the non Union in a temperate attitude, that manifested from his introspection. This is because, Like Ca just is a great religious houses, not a social reformer. Reference Books:
1-Junk "A business function", vol. 15: "praise God".
2-"central economic function A", vol. 7: "Holy Roman Empire" economic discrimination.
3-"A Junk business function", vol. 12: pratītyasamutpāda "litigation".
4-"A business function", vol. 10: "An economic means of charm".
5-Lu On: "brief history of Buddhism in India", the first, Chapter 2. END=VIETNAMESE TRANSLATE ENGLISH BY=THICH CHAN TANH.THE MIND OF ENLIGHTMENT.WORLD VIETNAMESE BUDDHIST ORDER=VIETNAMESE BUDDHIST NUN=GOLDEN LOTUS MONASTERY=THE EIGHTFOLD PATH.NAM MO SAKYA MUNI BUDDHA.( 3 TIMES ).AUSTRALIA,SYDNEY.17/12/2014.
Sự phân kỳ của Phật học sử, chúng ta tính từ Phật học xuất hiện vào những thế kỷ trước Công nguyên (TCN) cho đến thế kỷ thứ XI sau công nguyên (CN), tổng cộng có chừng 1500 năm, chia làm 6 giai đoạn: 1. Phật học Nguyên thủy; 2. Phật học Bộ phái; 3. Phật học Ðại thừa sơ kỳ; 4. Phật học Tiểu thừa; 5. Phật học Ðại thừa trung kỳ; 6. Phật học Ðại thừa vãng kỳ. Thời kỳ Phật học Nguyên thủy, là chỉ cho những học thuyết được truyền thừa tính từ thời gian đức Phật thành đạo và được truyền thừa 3,4 thế hệ cho đến sau khi Ngài nhập diệt, là thời gian nội bộ Phật giáo vẫn chưa phân hóa, tư tưởng vẫn còn thống nhất. Niên đại có thể tính là: Phật nhập diệt vào năm 486 TCN, hưởng thọ 80 tuổi, cho nên năm ngài sanh là năm 565 TCN. Ngài thành đạo năm 30 tuổi, tức năm 530 TCN. Phật học phân thành Bộ phái vào khoảng thời gian hơn 100 năm sau khi đức Phật nhập diệt. Do vậy, chúng ta có thể đi đến xác định niên đại của thời kỳ thứ nhất là năm 530 TCN - 370 TCN. Những học thuyết chủ yếu của thời kỳ Phật học Nguyên thủy là Kinh và Luật. Kinh gồm có hai loại, Phật giáo Bắc truyền gọi là A Hàm, Phật giáo Nam truyền gọi là Nikàya. A hàm, ngoài 4 bộ: Trường A hàm, Trung A hàm, Tạp A hàm, Tăng nhứt A hàm còn có 'Tạp Tạng'; Nikàya, ngoài 4 bộ tương đương A hàm vừa dẫn, còn có 'Tiểu bộ'. Phật giáo Nam Bắc truyền có 4 Bộ tương đương là Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Nhứt Bộ, và Tạp Bộ. Luật, nội dung cơ bản của Luật là giới điều, về sau thêm phần quảng thích và chú giải duyên khởi của từng sự kiện, như thế luật tổng cộng gồm có 3 Bộ. Những kinh và luật mà hiện nay được lưu truyền là đã được tăng thêm hoặc giảm bớt theo từng quan điểm của mỗi Bộ phái, trong đó không sao tránh khỏi mang sắc thái của mỗi Bộ phái, nếu như chúng ta muốn truy tìm lời dạy nguyên thủy của đức Phật, cần phải tiến hành nghiên cứu và phân tích một cách nghiêm túc. Những học giả Tây phương đã bỏ không ít thời gian nghiên cứu về vấn đề này, nhưng họ không thể sử dụng được những nguồn tư liệu Hán dịch (Tư liệu Phật giáo Bắc truyền phần lớn được bảo lưu trong Hán tạng), lại thiên nặng Pàli, thậm chí cho Kinh tạng Pàli là những lời chính đức Phật nói, quan điểm này không sao tránh khỏi sự thiên kiến. Về người Ðức, Aó Ðăng Bảo, người Anh, Lợi Tư Ðại Vệ, phương pháp nghiên cứu của hai người này về Thánh điển Pàli là: Từ trong Kinh Luật tìm ra sự sai khác của những gì tân và cựu, sau đó đoán định cái gì gọi là lời dạy của đức Phật. Ðây là phương pháp nghiên cứu xa xưa, cách đây 40 năm về trước, nhưng hiện nay vẫn còn ảnh hưởng. Còn phương pháp nghiên cứu của người Nhật là: Trước tiên, đem những Kinh Luật của Nam Bắc truyền đối chiếu so sánh, tìm xem trong ấy những gì giống nhau giữa Nam Bắc truyền, từ đó mới phán đoán cái gì gọi là Phật học Nguyên thủy, như học giả Tỷ Kỳ Chánh Trị đã sử dụng phương pháp này. Về sau, Vũ Thăng Bá Thọ, ngoài phương pháp so sánh đối chiếu, còn sử dụng phương pháp, tiến hành cụ thể phân tích tính logic trong kết cấu và tính logic của sự phát triển trong từng thể hệ của mỗi học thuyết, từ đó đi đến xác định những gì là Phật học Nguyên thủy và những gì là những cái xuất hiện về sau. Phương pháp nghiên cứu của Tỷ Kỳ có phần thuyết phục hơn, nhưng cũng rất khó phục hồi diện mạo Phật học Nguyên thủy. Lý do là Phật giáo Bộ phái đã trải qua mấy lần phân hóa, do vậy, những tư liệu cũng đã mấy phen thay đổi, cùng nhau ảnh hưởng, mô phỏng qua lại, không ngừng bổ sung, tức có những điểm tương đồng, do đó, những gì tương đồng ấy, thật khó đi đến xác định là Phật học nguyên thủy. Hiện nay, nếu muốn tìm ra Phật học Nguyên thủy từ trong những Kinh luật hiện có, vẫn còn là vấn đề nan giải. Chương này, người viết chỉ lấy đức Phật làm trung tâm mà lưu hành những học thuyết, từ đó truy tìm vấn đề trọng tâm của vấn đề, đồng thời thêm phần tổ chức, cho đó là Phật học Nguyên Thủy, phương pháp này không giống những phương pháp phân tích vừa nêu trên của những học giả Tây phương và Nhật Bản.
* * *
1.Thời đại của đức Phật Thích Ca Thời đại đức Phật Thích Ca là vào thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ V trước công nguyên. Bấy giờ Xã hội Ấn Ðộ theo chế độ chiếm hữu nô lệ, đã hình thành Quốc gia, thành thị, ngành thương nghiệp khá phát triển. Chẳng qua chế độ nô lệ của Ấn Ðộ cùng Tây phương có những điểm không giống nhau, Ấn Ðộ không có quy mô tổ chức chế độ nô lệ, những người nô lệ cũng không bị xâm đoạt nặng nề như Tây phương, do vậy, ở Ấn giai cấp nô lệ không phát sanh hiện tượng phản kháng bạo động giống như Tây phương. Có một số người cho rằng, giai cấp nô lệ ở Ấn chỉ là hình thức chiếm hữu nô lệ ở giai đoạn đầu, rồi đình trệ ở giai đoạn này, không tiếp tục phát triển. Tình hình phát triển của xã hội Ấn Ðộ là: Từ Tây bắc Ấn phát triển dần đến Ðông Ấn. Trước tiên là vùng thượng du lưu vực sông Hằng, cửa khẩu giòng sông Ấn Ðộ và Diêm mâu na là khu vực bình nguyên, nơi đây hình thành cái gọi là 'Trung quốc' của nước Ấn Ðộ. Vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên phát triển đến vùng hạ lưu sông Hằng, tức miền trung Ấn, ở đây thành lập khá nhiều quốc gia, lấy thành thị làm trung tâm, một số người gọi nó là 16 quốc gia (Kinh tạng Pàli, Tăng nhứt Bộ, kinh thứ 1 và 4, tương đồng Hán dịch, Trung A hàm, quyển 55 "Trì tế kinh "cho đến trong giáo điển của Kỳ na giáo đều có ghi chép 16 quốc gia này). Ðến thời đại đức Phật Thích Ca, hình thế 16 nước này, có sự chuyển biến khá lớn, trong đó những quốc gia cường thạnh là nước Ma Kiệt Ðà ở vùng Nam ngạn sông Hằng, Kiều Tát La vùng Tây Bắc, và Bạt Kỳ ("kinh Duy Ma Cật " lấy nước này làm bối cảnh) vùng Ðông Bắc Ấn. Tình hình chính trị của mỗi quốc gia không giống nhau, có những nước theo chế độ quân chủ, có những nước theo chế độ cộng hòa. Những quốc gia theo chế độ cộng hòa cũng có người lãnh đạo, chẳng qua có chế độ hội nghị, những việc trọng đại thông qua hội nghị đa số thành viên quyết định, đây là tàn dư của chế độ hội nghị nguyên thủy còn lưu lại. Chế độ cộng hoà chỉ tồn tại ở vùng Ðông bắc Ương Già, Bạt Kỳ, Mạt La và nước Ca Tỳ la Vệ của giòng tộc Thích Ca .. hiện nay những nước này hoàn toàn bị tiêu diệt (Trong "Bổn sanh Kinh "và những Phật truyện về sau, đều có phản ánh tình hình xã hội đương thời). Trong các nước, thông thường có chế độ chủng tánh (Chủng tánh tức là "Ngoả nhỉ nạp ", ý nghĩa là nhan sắc. Người Ariyan có màu da trắng, chiếm lãnh địa vị thống trị, dân bản địa có màu da đen, là những người bị trị, đây là sự phân chia đẳng cấp trong xã hội Ấn). Ðầu tiên Ấn Ðộ chỉ có hai chủng tộc, về sau những người Ariyan lại tiếp tục phân thành 4 giai cấp: 1. Bà La môn, 2. Sát đế Lợi, 3. Phệ xá, 4 Thủ đà la. Bà La Môn vốn là giai cấp chuyên giúp cho giai cấp thống trị là Sát Ðế lợi, nắm giữ lãnh vực văn hoá, tôn giáo. Ðến thời đại Thích Ca, giai cấp Sát Ðế lợi đối với giai cấp Bà la môn biểu thị sự bất bình về mặt quyền lực, những người ủng hộ tư tưởng phi Bà la môn, hình thành trận tuyến chống lại giai cấp Bà la môn. Giai cấp Phệ xá bao gồm những người nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp, chịu sự áp bức của 2 giai cấp trên rất trầm trọng. Ðương thời xã hội Ấn Ðộ ngành thủ công nghiệp phát đạt, thương nghiệp phồn thịnh (cùng các nước Miến Ðiện, Ba Tư, Á rập đều có qua lại buôn bán), những thương nhân trở thành giàu có, do vậy, đối với việc chính trị sinh ra yêu cầu bức thiết. Sự hình thành những lực lượng xã hội này, đã làm suy yếu các mặt chính trị, tư tưởng của giai cấp Bà la môn, điều đó đã dẫn đến xã hội đương thời xuất hiện sáu phái triết học, là những tư tưởng đại diện cho các giai cấp không cùng vị trí trong xã hội ("Kinh Duy Ma. Phẩm Ðệ tử", "Trường A hàm. Kinh Sa môn quả"-- Ðơn hành bổn đều có tư liệu liên quan đến tư tưởng của 6 phái này. Trường Bộ kinh của Nam truyền cũng có ghi chép, chẳng qua sự ghi chép của Nam Bắc truyền không đồng nhất). Trong sáu phái triết học, Phái thứ nhất, là phái có tư tưởng duy vật, người đại diện cho phái này là A xà Ða - Ajita Kesa Kambala, về sau được gọi là Thuận Thế phái. Phái này cho tứ đại: đất, nước, gió, lửa là những nguyên tố độc lập trường tồn, con người và thế giới do 4 đại này tạo thành; không thừa nhận có linh hồn, con người khi chết đi trả về tứ đại. Mục đích sống của con người là truy cầu và thỏa mãn những khoái lạc. Học thuyết này, là sự phản kháng việc tế tự của Bà la môn giáo, là những người đại diện cho giai cấp nô lệ. Phái thứ hai là Tán Nhã Di - Sanjaya Velatthiputta, là học phái mang chủ nghĩa trực quan, đôí với mọi vấn đề đều không có sự khẳng định, như vấn đề có hay không có đời sau, có hay không có quả báoẨ Phái này cho rằng, nói có tức có, nói không liền không. Do vậy, người ta cho tư tưởng phái này, là phái trường uốn như con lương, thật khó nắm bắt. Phái này chủ trương thật hành thiền định, để mong cầu chơn chánh trí tuệ. Trong những đệ tử đức Phật, ngài Mục Kiền Liên, Xá lợi Phất đều có theo phái này học tập. Học thuyết của phái này cũng hàm ý phản đối chủ trương cho rằng, thế giới do Phạm ngã chuyển hoá mà thành của Bà la môn giáo. Ðến thời đại "Aó nghĩa thư " vẫn còn thừa nhận thuyết nghiệp báo, luân hồi, Tán Nhã Di biểu hiện thái độ không tín nhiệm bằng cách không khẳng định cũng không phủ định. Phái thứ ba, là Mạt già Lê - Makkhali - Gosala, là người có chủ trương định mệnh luận, tức không thừa nhận có nghiệp báo, không có cha mẹ, tu hành là vô nghĩa, không ích lợi gì cả. Chỉ cần trải qua thời gian 840 vạn đại kiếp, đến thời gian đó không luận là kẻ trí người ngu đều được giải thoát. Phái này cho rằng, con người là do các loại nguyên tố tạo thành, mang chủ nghĩa duy vât. Những người theo phái này tự cho học thuyết mình là chánh kiến, ngoài ra đều là "Tà mạng ngoại đạo" ngay cả Phật giáo. Phái thứ tư, là Bất Lan ca Diếp - Purana Kassapa. Học thuyết này cùng với học thuyết Mạt già Lê giống nhau, phủ nhận thuyết thiện ác nghiệp báo và những học thuyết Bà la môn giáo, chủ trương phóng túng dục lạc, mang chủ nghĩa hoài nghi. Những người theo học thuyết này đều xuất thân từ giai cấp nô lệ. Phái thứ năm, là Ba Phù Ðà - Pakudha - Kaccayana, phủ nhận hành vi của con người không có ảnh hưởng gì trong đời sống tương lai, cho rằng thân người là do 7 yếu tố tạo thành, một trong 7 yếu tố xa lìa, con người liền chết, những yếu tố vĩnh này viễn tồn tại, mang tư tưởng duy vật. Ba học thuyết vừa nêu, học thuyết na ná giống nhau, do đó thường ngộ nhận giữa phái này và phái khác, 3 phái này đều tự xưng "Chánh mạng phái", ngược lại, Phật giáo gọi họ là "Tà mạng ngoại đạo". Những người theo phái này, xuất thân từ giai cấp nô lệ, những học thuyết vừa dẫn đại diện cho quyền lợi của giai cấp thứ tư là giai cấp nô lệ. Phái thứ sáu, là Ni Kiền Tử - Nigantha Nata-putta, phái này về sau phát triển thành Kỳ Na giáo, chủ trương thất cú nghĩa: Trước hết, đem thế giới phân thành hai loại, có sanh mạng và không có sinh mạng; Có sanh mạng mà không được giải thoát, do bỡi hoặc nghiệp trói buột, do đó cần phải ngăn trừ, tiêu diệt chúng để đạt đến giải thoát. Phái này cho rằng, nghiệp báo của con người quá nặng nề, muốn nghiệp báo mau kết thúc, cần phải trải qua tu tập khổ hạnh, cho nên chủ trương khổ hạnh. Tư tưởng này, trên thật tế duy trì thuyết nghiệp báo của Bà la môn. Ni Kiền Tử xuát thân từ giai cấp Sát Ðế lợi, người mẹ là con gái của nhà vua, em gái là vương phi, cho nên có thể nói học thuyết của phái này cũng đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Phái này đối lập với học thuyết đức Phật Thích Ca, đã từng xảy ra sự xung đột giữa hai bên. Phái này tuy duy trì Bà la môn giáo, nhưng trên phương diện giải thoát, cùng Bà la môn giáo chủ trương không giống nhau. Chủng tộc của Thích Ca vốn không rõ ràng, có người cho là chủng tộc Ariyan, tức là chủng tộc Mông Cổ, nằm phiá nam Nepal, tiếp giáp giòng sông Rapti thuộc đông bắc Ấn Ðộ. Truyền thuyết cho rằng, dưới chân Hy mã lạp sơn, có một vùng đất chiều rộng chừng 20 cây số, chiều ngang 16 cây số, tổng diện tích độ khoảng 320 cây số vuông, nơi đây có 10 thành thị nhỏ, trong đó thành lớn nhất là Ca tỳ la vệ, nhơn đó lấy thành này làm tên nước. Theo truyền thuyết cho rằng, đương thời Ấn Ðộ có 16 nước lớn, nhưng trong đó không có tên Ca tỳ la vệ, có thể bấy giờ nước này chưa thể độc lập, vẫn còn thuộc địa nước Kiều tát la. Ngài Huyền Trang đã từng đến nơi này, căn cứ "Tây Vức ký" ghi rằng, sự đổ nát của thành này vẫn còn tồn tại... Nước này có 80 ngàn hộ, tổng cộng có 500 ngàn người, theo chế độ cộng hòa. Ðương thời, về mặt chánh trị xã hội Ấn đang ở trong trình trạng mạnh hiếp yếu, Ca tỳ la vệ đang bị nước Kiều tát la uy hiếp là một điển hình cụ thể. Ðứng trước tình hình như vậy, Thích Ca đối với đất nước tất nhiên phải có trách nhiệm, làm thế nào để thoát khỏi sự uy hiếp của Kiều tát la? Vua Tịnh Phạn đương nhiên mong muốn người con của mình là Thích Ca tiếp tục kế vị, để duy trì lãnh thổ là điều tất yếu. Nhưng, bản thân Thích Ca không muốn kế vị lãnh đạo quốc gia, ngược lại, ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tư tưởng học tập, cuối cùng Thích Ca tự mình sáng lập học thuyết, truyền bá khắp nơi, phát triển thành tôn giáo. Từ đó, những huyền thoại về ngài tự nhiên càng lúc càng thần thánh hóa. Ðối với những huyền thoại này, đã có nhiều học giả nghiên cứu và hiện nay cũng còn có nhiều người tiếp tục nghiên cứu, cho đến nay, lịch sử về cuộc đời của ngài tương đối rõ ràng. Những truyền thuyết về đức Phật, một phần được bảo tồn trong Kinh tạng, phần lớn được bảo tồn trong Luật tạng. Luật, mỗi Bộ phái đều có Luật riêng, do đó Phật truyện cũng không giống nhau. Ðại chúng bộ lấy Phật truyện gọi là 'Ðại sự' , Pháp tạng bộ gọi là 'Bổn hành kinh' (Luật của phái này gọi là "Tứ phần luật "). Trong thánh điển Hán dịch, có một bộ Phật truyện tương đối hoàn chỉnh là "Phật bổn hành tập kinh " bao gồm 16 quyển, được dịch vào nhà Tùy, tập hợp những Phật truyện khác nhau từ 5 Bộ. Những Phật truyện trong các bộ luật của các Bộ phái chỉ ghi chép về gia thế, sự kiện xuất gia, thành đạo của đức Phật, và ngay cả sau khi thành đạo 6 năm, ngài trở về hoàng cung, nhưng từ đó về sau những hoạt động của ngài không thấy ghi chép, trong "Phật bổn hành kinh "cũng chỉ ghi chép như thế. Ngài Mã Minh viết quyển "Phật sở hành tán" cũng dựa vào những nguồn tư liệu này, rồi viết thêm cho đến khi đức Phật nhập diệt (Ngoài ra ngài Mã Minh còn viết phần tụng Quy kính trong "Ðại trang nghiêm luận kinh ", quy kính không chỉ một Bộ, trong đó bao gồm Ðộc tử BộẨ). Thích Ca sau khi thành đạo, những người theo ngài xuất gia tổ chức thành đoàn thể, đặt ra nhiều chế độ, trong đó có chế độ an cư. Căn cứ những tư liệu hiện có, sau khi Phật thành đạo, trong vòng 45 năm, mỗi địa điểm an cư đều có ghi chép, vả lại rất hợp lý, thứ nhất, Phật thường trú tại thành Vương Xá, là thủ đô của nước Ma kiệt đà, thứ hai, hơn 20 năm ở tại thành Xá Vệ, là thủ đô nước Kiều Tát La. Thế thì, dựa trên tư liệu, co thể tường thuật 45 năm đức Phật giáo hoá. Ðiều này, những truyện ký về đức Phật Thích Ca là có sự thật. Những việc làm trọng tâm của đức Phật, ngang qua tác phẩm "Ấn độ Phật học sử lược", qua đó chúng ta có thể thấy phần nào về cuộc đời của Ngài. Ðại khái như dưới đây: Thuở thiếu thời Ngài được giáo dục một cách nghiêm túc, khi trưởng lập gia đình, sinh con, năm 29 tuổi xuất gia, đến nước Ma Kiệt Ðà tìm thầy học đạo, nhưng không thoả mãn, trải qua 6 năm khổ hạnh vẫn không hài lòng, cuối cùng tự ngài tư duy sáng lập học thuyết mới vào năm 35 tuổi. Từ đó, đức Phật bắt đầu tuyên dương giáo pháp, trải qua tròn 45 năm. Những nơi mà Ngài thường nói pháp là nước Ma Kiệt Ðà, Kiều Tát La và Bạt Sa, đông đến Chiêm Ba, tây đến Ma thâu La, phạm vi khá rộng. Tại sao Thích Ca muốn xuất gia? Qua sự phản ánh trong học thuyết của Ngài, biểu hiện nội dung xã hội như thế nào? Ấn độ xã hội đương thời tự do tư tưởng rất phát triển, những nhà tư tưởng này xuất thân từ giai cấp Sát Ðế Lợi không phải là ít. Trên thực tế, có nhiều vấn đề mà giai cấp Bà La Môn không hiểu phải học tập ở giai cấp Sát Ðế Lợi (Trong "Aó nghĩa thư " có đề cập đến vấn đề này). Như liên quan đến vấn đề Thần ngã, khái niệm này vốn là lý luận của Bà La Môn, thế nhưng về sau bản thân họ giải thích không rõ ràng, phải học tập ở Sát Ðế Lợi. Lại như học thuyết luân hồi, do nhà vua Bát phược ha na thuộc giai cấp Sát Ðế Lợi sáng lập, sau đó những người Ba la môn giũ phần tế tự đối với học thuyết này phát triển thành thuyết nghiệp lực, và được xem như là sự bí mật để phụng thờ. Trước tình hình như thế, Thích Ca cho là, nếu như không thể đề cao được địa vị chính trị nước Ca tỳ la vệ, thì tốt nhất cá nhân cần tranh thủ với mọi người trong lãnh vực tư tưởng học thuật. Theo truyền thuyết, sau khi ngài sinh ra, tướng sư dự đoán, nếu như Ngài không làm vua chuyển luân thì làm nhà tư tưởng, điều tiên đoán này, phản ánh cục diện đương thời mà Ngài phải đối phó, chỉ có hai con đường là chọn học thuật hay chính trị. Ðó là nguyên nhân dẫn đến Thích Ca xuất gia, ngoài ra còn có nhiều thuyết khác nhau. Như cho rằng, Ngài thấy sự khổ đau của người già, người bịnh và người chết, đồng thời thấy đời sống tự do tự tại của vị Sa môn, dẫn đến sự xuất gia của Ngài; ngoài ra còn có thuyết cho rằng, khi Ngài trông thấy người nông phu cày ruộng, những loài trùng bị chim ăn, nhưng người nông phu vẫn thản nhiên, không tỏ sự thương tâm trước sự chết của một sinh mạng. cảnh tượng này, khiến Ngài động lòng bi mẫn trước cái chết của kẻ khác, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa vô thường. Phải chăng sự xuất gia của Ngài là do thấy sự khổ nhọc của người nông phu và sự khổ đau của sinh mạng vô thường? Tại Trung quốc, có một số tư liệu ghi rằng, Thích Ca sống trong hoàng cung không cảm nhận được sự đau khổ, phải ra khỏi hoàng cung, tiếp xúc những hiện tượng sinh hoạt của xã hội, khiến ngài sinh ý niệm thế giới là khổ đau. Tư liệu này, tuy không rõ ràng và xác thực, nhưng cho rằng nông phu là khổ, khái niệm này cùng học thuyết của Ngài có sự tương đồng. Ðối với việc duy trì và hưởng ứng học thuyết của Thích Ca, một số tư liệu ghi, nhà vua Tần Bà Sa La nứơc Ma kiệt đà rất kính phục, và đem Trúc Lâm tinh xá cúng dường Thế Tôn để làm nơi tuyên dương chánh Pháp. Về sau, Ngài cũng được chủng tộc của Ngài hưởng ứng, và cuối cùng được vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La tín nhiệm. Ngoài ra, Thế Tôn còn được những người thương nhân như Tu Ðạt Ða, Cấp Cô Ðộc v.v. là những vị thí chủ nổi danh đương thời ủng hộ. Còn có thuyết cho rằng, Ðông viên Lộc mẫu giảng đường là do một cô dâu giàu có đem đồ trang sức quí giá của mình bán đi, lấy tiền kiến thiết Giảng đường này. Về sau, Thế Tôn đi đến thành Phệ Xá Ly, ở đây vốn là khu vực của Kỳ Na giáo, hoạt động rất khó khăn, nhưng Ngài cũng được vị trưởng giả An Ma La Vệ cúng dường một Tinh xá (Trong kinh "Duy Ma Cật "có đề cập đến Tinh xá này). Có thuyết cho rằng, An Ma La Vệ là một vị trưởng giả, có thuyết cho rằng là một kỷ nữ, bất luận như thế nào, sự ủng hộ về mặt vật chất vốn từ những giai cấp quí tộc. Trong hàng đệ tử của đức Phật, mở đầu là 5 vị Tỳ kheo, thứ đến là thương nhân Da Xá, ông cùng 60 môn đồ của mình đến qui y đức Phật. Qua đó, chúng ta thấy, những người ủng hộ đức Phật là những người thuộc giòng dõi Sát đế lợi, giàu có, do vậy học thuyết của Ngài là đại diện cho giới quần chúng, và ở đây không đủ lời để dẫn chứng những ví dụ cụ thể. Sách Tham Khảo:
1. Bách Duy dịch: "Phật tại thế thời Ấn độ thập lục quốc đích chính trị hình thế ", đăng trên 'Hiện đại Phật học', 1960, số 6,7.
2. Dục Hưởng: "Phật Ðà thời đại Ấn độ chư quốc đích xã hội tư tưởng khái huống ", đăng trên 'Hiện đại Phật học', 1956. Số 5.
3. Ðáng Dụng Ðồng: "Ấn độ triết học sử lược", chương 3,4.
4. Lữ Trưng: "Ấn độ Phật giáo sử lược ", chương 1.
* * *
2. Sự Kết Cấu Và Hình Thành Phật Học Nguyên Thủy. Sự kết cấu Phật học nguyên thủy, gồm hai phương diện hình thức và nội dung. Sau đó, những đệ tử của Ngài Phật tin tưởng và duy trì hai tạng Kinh và Luật này. Thế thì, phương thức duy trì như thế nào? Suốt 45 năm, Thế Tôn tuyên dương chánh pháp, những nơi mà Ngài thuyết giảng tương đối khá rộng, không những chỉ có thế, Ngài còn cho phép những đệ tử dùng tiếng địa phương truyền bá, khi tuyên dương chắc chắn có một phương thức cố định. Căn cứ tập quán đương thời, phương thức duy trì những Kinh Luật này là 'khẩu truyền', nương vào ký ức truyền trao cho nhau, thích nghi nhất cho ký ức là dùng hình thức 'Kệ tụng', vì hình thức kệ tụng vừa ngắn gọn, lại vừa có âm vận, thuận tiện cho việc tụng đọc và ghi nhớ. Trong Luật tạng của các Bộ phái, còn bảo tồn một số tư liệu những đệ tử Phật tụng kinh (Tham khảo Lai Duy "Phật kinh nguyên thủy tụng dọc pháp"), những kinh đề cập đến vấn đề này như "Nghĩa túc kinh "(Hán dịch có đơn hành bản, Pàli văn, được chép trong Kinh tập), "Ba la diên kinh "(Hán dịch trong "Ðại trí độ luận", "Du già sư địa luận" đều có dẫn dụng, Pàli văn được chép trong Kinh tập), "Pháp cú kinh " (Hán, Pàli đều có đơn hành bản) v.v. những kinh vừa nêu trên toàn bộ đều dùng hình thức kệ tụng. Những kệ tụng này, có một số thuộc loại không có câu hỏi mà tự trả lời (vô vấn tự thuyết), có một số thuộc loại vấn đáp. Ngoài ra, còn có một số vấn đề như Phật nói kinh lúc nào, ở đâu và đối tượng là ai v.v., cũng đều được ghi chép, gọi đó là 'Duyên khởi'. Qua đó, có thể nói rằng, hình thức bảo tồn kinh luật lấy 'kệ tụng' làm trung tâm, nghĩa lý của nó, hẳn nhiên phải thông qua sự giải thích, tức là tiếp tục có sự phát triển. Sự giải thích này được gọi là A tỳ đạt ma (Abhidharma), ý nghĩa là 'đối pháp'; Kinh là phạm vi của 'pháp', những gì giải thích về 'pháp' được gọi là 'đối pháp'. Hình thức của đối pháp có mấy loại như dưới đây:
1. Ưu ba đề xá (nghị luận), đơn thuần đem lời Phật dạy giải thích, vừa đơn giản vừa rõ ràng, dễ dàng tìm hiểu nghĩa lý. Phương pháp này, chính bản thân đức phật cũng đã sử dụng, như kinh "Ðại duyên phương tiện" trong Trường A hàm, là sự giải thích của đức Phật đối với pháp duyên khởi. 2. Màtrka (Bổn mẫu), đây là phương thức giải thích những điểm chính yếu của toàn văn, gọi đó là 'bổn mẫu', nghĩa là từ trọng điểm đơn giản này, phát sinh nhiều đạo lý, như người mẹ sinh con. Phương pháp này, có một số do chính Phật nói, có một số do đệ tử nói. 3. Quyết trạch, nghĩa là trong những loại nói pháp không giống nhau chọn ra một loại, đây chủ yếu là đề xuất phương thức chọn lựa danh tướng.
Vì có rất nhiều ỳ nghĩa danh tướng giống nhau, để xác định ý nghĩa của nó, cho nên phân chia chủng loại khác nhau. Phương pháp này phần lớn căn cứ vào số chữ nhiều ít mà phân loại, nghĩa là từ pháp thứ nhất cho đến pháp thứ mười, do đó gọi là pháp 'thập thượng' hay pháp 'Tăng nhất'. Pháp thứ mười trở lên cũng có như 'Mười hai nhân duyên' v.v. nhưng rất ít. Như thế, phương pháp phân loại này, vừa thuận tiện cho việc hoằng dương chánh pháp, vừa dễ dàng ghi nhớ.
Do vì tình hình như thế, có thể nói phương pháp lưu trữ những lời Phật dạy là sử dụng hình thức 'kệ tụng', kế đến là 'duyên khởi', từ đó phát triển thành 'A tỳ đạt ma'. Sau khi Phật diệt độ, những hình thức này trở thành cố định. Theo truyền thuyết cho rằng, sau khi Phật diệt độ không bao lâu, tại động Thất diệp thuộc thành Vương xá, có cuộc kết tập thánh điển gồm 500 vị Tỳ kheo. Lần kết tạp này, được ghi chép trong luật tạng của các Bộ phái, nội dung cơ bản giống nhau, nhưng có một số bộ phận nhỏ không giống nhau, vì mỗi Bộ tự thêm vào hoặc giảm đi. Lần kết tập này, những người tham gia là đệ tử của Phật, do ngài Ca Diếp chủ trì đại hội, phương thức hội nghị là 'tụng đọc', tức trong hội nghị đề cử một người đọc lại những lời Phật dạy cho mọi hội nghị nghe, sau đó do các thành viên trong đại hội thẩm định. Những gì được đại hội thông qua, cái ấy được xem là Phật nói. Phương thức kết tập kinh điển này cũng là hình thức kết tập của những lần sau. Nội dung Kết tập lần này, theo truyền thuyết, gồm có Kinh và Luật, thậm chí có cả Luận (Abhidharma). Lần kết tập thứ nhất là sự kết tập kinh và luật là điều có tin được, nhưng kết tập luận là điều không thể xảy ra. Ngay cả việc sau khi đức Phật nhập diệt liền có kết tập này cũng là vấn đề khó đi đến xác định, huống hồ là việc kết tập luận tạng, nhưng cũng có thể xảy ra việc này, đặc biệt là vấn đề giới luật, vì cần phải xác định những giới điều. Căn cứ vào những bộ luật mà các Bộ phái truyền thừa, chúng ta có thể tìm ra cái gọi là 'nguyên thủy'; hoặc là cái được sản sinh từ lần kết tập đầu tiên. Kinh điển mà được kết tập ở lần thứ nhất này phải chăng là A hàm? Dường như là không phải. Vì trong A hàm có đề cập đến hình thức 'Cửu phần giáo' (1. Kinh; 2. ứng tụng; 3. Ký biệt; 4. Kệ tụng; 5. Tự thuyết; 6. Như thị ngữ; 7. Bổn sanh; 8. Vị tằng hữu; 9. Phương quảng), Theo ngài Giác Âm (Buddhagosha) giải thích, hiện còn lưu trữ một bộ phận trong 9 phần giáo là Kinh (Pàli văn xếp vào Tiểu Bộ, Hán dịch là Tạp tạng). Do đó, chúng ta có thể suy đoán, rất có khả năng kinh điển mà được kết tập ở lần thứ nhất là hình thức cửu phần giáo, về sau mới biên tập thành A hàm. Tiêu chuẩn biên tập A hàm. Thứ nhất là căn cứ vào sự dài ngắn của kinh mà phân loại: Như những kinh có nội dung dài được xếp vào Trường A hàm; nội dung ngắn xếp vào Tạp A hàm (Tương ưng); nội dung trung bình xếp vào Trung A hàm; ngoài ra, có một loại y cứ vào số mục lớn nhỏ mà phân định, loại này được xếp vào Tăng nhất A hàm. Thứ hai là căn cứ vào nội dung của kinh mà phân loại: Như kinh Trường A hàm, phần lớn nội dung của kinh này là đề cập đến những vấn đề của ngoại đạo, như kinh "Sa môn quả "là bài kinh có nội dung bài xích 6 phái ngoại đạo; Những kinh chuyên giải thích vấn đề học tập, được biên tập vào Trung A hàm; Những kinh trình bày đạo lý tu tập Thiền định, biên tập vào Tạp A hàm; Những kinh, nội dung mang khuynh hướng tuyên truyền rộng rãi, biên tập vào Tăng nhứt A hàm. Sự biên tập và hình thành kinh A hàm vào khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt. Từ đó về sau có khá nhiều quan điểm khác nhau về sự biên tập A hàm và luật bộ, có thể nói sở dĩ có sự bất đồng này, do liên quan đến sự truyền thừa. Theo truyền thuyết cho rằng, Kinh là do A Nan tụng, luật là do Ưu Ba Li đọc, đương nhiên mỗi bên đều có hệ thống riêng, đồng thời theo truyền thuyết cũng đề cập rằng, Ngài Phú lâu Na đối với việc kết tập phát sanh ý kiến bất đồng, điều đó nói lên rằng, Ngài cũng có hệ thống riêng. Kết tập kinh điển lần thứ 2, Ngài A Na Luật tự mình lại có hệ thống riêng. Những sự dị biệt này, chắc chắn có ảnh hưởng đến sự phân phái trong Phật giáo. Liên quan đến nội dung của vấn đề lời dạy nguyên thủy của đức Phật, trong truyện ký của Thích Ca có đề cập đến một số vấn đề như sau: Thích Ca từ khi xuất gia, thành đạo cho đến tuyên truyền giáo pháp, đều không rời khỏi bối cảnh của giai cấp Sát đế lợi. Ngài muốn thay thế cho giai cấp Sát đế lợi giải quyết những vấn đề nan giải về sự hổn loạn tư tưởng của xã hội đương thời, triết học của ngài là triết học thật tiễn (nhân sanh triết học) nhằm phản bát triết học Bà la môn, đây là sự thay thế tổ quốc của ngài là Ca tỳ la vệ để tranh dành địa vị, nhờ vậy mà có được danh hiệu Thích Ca Mâu Ni (Bậc tánh của giòng tộc Thích Ca). Ðiểm này, đối với tiền đồ tổ quốc của Ngài có lợi thế khá lớn. Ví như, vào độ tuổi già yếu Thề Tôn thường tuyên thuyết giáo pháp ở nước Kiều tát la, điều đó đã dẫn đến sự ôn hoà giữa hai nước Kiều Tát La và Ca Tỳ La Vệ thay vì bị uy hiếp. Dưới chế độ xã hội giai cấp, học thuyết của Thích Ca mang khuynh hướng chống lại chủ nghĩa duy vật là điều tự nhiên. Ngài cực lực phản đối 6 phái triết học đương thời, tư tưởng của Ngài không đi vào con đường cực đoan, ngược lại mang sắc thái ôn hoà. Ðiều đó đã dẫn Ngài đến thành công, vì được các giai cấp trong xã hội ủng hộ, thậm chí có một số tư tưởng gia của Bà La Môn theo Ngài. Một mặt, Ngài không tán thành chế độ chủng tánh của Bà la môn, nhưng mặt khác, Ngài gần như đồng ý chế độ chủng tánh. Chúng ta có thể lấy "Ngũ giới" là căn bản đạo đức của xã hội đương thời làm thí dụ điển hình. Năm giới vốn là của Bà la môn và Kỳ na giáo, Thích Ca cũng lấy 5 giới này làm tiêu chuẩn đạo đức, nhưng không phải hoàn toàn đồng ý, Ngài lấy giới "ly dục" là một trong 5 giới của Bà la môn đổi thành giời "không uống rượu". Lại, như Ngài chủ trương xuất thế, cho rằng tất cả sự vật trong thế gian vốn không thật có - "Không", tuyên dương Niết bàn, nhưng ở phương diện khác, Thích Ca đối với mọi người lại đề cao bố thí và trì giới, cho rằng, chính sự ưa thích giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc. Có thể nói, phương pháp tu tập của Thích Ca so với cách tu tập khổ hạnh hà khắc, tế tự phiền phức của Bà la môn giáo có phần đơn giản đi nhiều, do đó được mọi người hoan nghênh tiếp nhận, nhất là giai cấp thương nhân. Thích Ca đã từng tham vấn và học tập qua những học giả nổi danh đương thời, do đó, học thuyết của Ngài có phần hoàn chỉnh, vì Ngài biết kế thừa và chọn lọc cái hay của những học thuyết khác. Do vậy, học thuyết của Ngài có liên quan mật thiết đến những học thuyết khác của đương thời xã hội Ấn. Những học thuyết đương thời có hai khuynh hướng: 1. Tư tưởng Bà la môn, cho rằng sự hình thành vũ trụ là từ một nhân căn bản chuyển biến hình thành những cái khác, tư tưởng này được gọi là thuyết trong nhân có quả. Dùng nó để chỉ đạo thật tiễn, những người theo tư tưởng này lấy tu tập thiền định làm trung tâm, thông qua tu thiền định để nhận thức cái gọi là "nhân căn bản", từ đó có thể đạt đến cảnh giới giải thoát. 2. Tư tưởng phi Bà la môn, cho là sự vật do nhiều nhân kết họp mà thành, phái này được gọi là thuyết "trong nhân không quả". Học thuyết này dùng để chỉ đạo cuộc sống, sau đó phái này lại chia thành hai phái khác nhau, một phái đề cao tu tập khổ hạnh, và phái khác đề cao thỏa mãn dục vọng. Ðối với những lý thuyết trên Thích Ca đều không chấp nhận, cho nên tự mình đưa ra thuyết "Duyên khởi ", Ngài cho rằng, các pháp cùng nhau nương tựa, cùng làm điều kiện sanh diệt cho nhau, chẳng phải do một nhân sanh nhiều quả, cũng chẳng phải nhiều nhân sanh một quả mà là cùng nhau làm nhân làm quả. Mục đích của lý thuyết này nhằm đả phá lý thuyết "nhứt nhân luận" của Bà la môn, có khuynh hướng vô thần luận, nhưng học thuyết của Ngài không triệt để đả phá toàn bộ học thuyết Bà la môn nhưng Ngài lại tin tưởng sử dụng thuyết "nghiệp lực", cho rằng, tác dụng của nghiệp có tầm mức quan trọng trong cuộc sống. Hai hệ thống học thuyết vừa tường thuật trên đều lấy bản thể luận làm điểm căn cứ, nhưng học thuyết của Thích Ca trên căn bản không đề cập thảo luận những vấn đề liên quan bản thể luận, như "14 vấn đề vô ký " (Ký là phân biệt, nghĩa là 14 vấn đề không giải thích) mà Ngài đề cập: Vũ trụ là thường hay vô thường? Vũ trụ là hữu biên hay vô biên? Sanh mạng sau khi chết còn hay mất? Sanh mạng và thân là một hay khác? v.v. (3 loại đầu, mỗi loại phân thành 4 vấn đề, như thường, vô thường, hữu thường vô thường, phi hữu thường phi vô thường v.v., loại sau lại phân thành hai vấn đề, tổng cộng có 14 vấn đề.), những vấn đề này, đối với giới học thuật đương thời, là đề tài được đưa ra cùng nhau thảo luận, nhưng riêng Thích Ca thì ngược lại, không chịu thảo luận, với lý do là những vấn đề này cùng với đời sống thật tế con người không một tí gì quan hệ, giả như nếu đem chúng thảo luận, cũng không giải quyết giúp ích được gì cho con người. Do đó, trong nhân quả, Ngài không thừa nhận cái gọi là "nhân thứ nhất ". Học thuyết của Thích Ca có những đặc điểm riêng của nó, như chúng ta thấy học thuyết của Thích Ca từ đầu đến cuối luôn luôn sử dụng thái độ phân tích, so sánh của từng vấn đề. Như ngay từ lúc đầu giữa hai khuynh hướng hưởng thọ dục vọng và khắc khổ của khổ hạnh, Ngài nên lựa chọn con đường nào trong hai cực đoan ấy, cuối cùng Ngài chọn con đường "trung đạo". Con đường trung đạo của Ngài là chú trọng phương diện hành động thật tế, như Ngài cho rằng, quan điểm của những nhà duy vật đương thời, chủ trương thỏa mãn dục vọng là mục đích của nhân sinh là không hợp lý, ngay cả việc Ni kiền tử chủ trương hà khắc trong việc tu khổ hạnh cũng không đúng, ngược lại Ngài cho rằng, chỉ có con đường "Trung đạo", là con đường không khổ cũng không vui mới là con đường chân chính. Về sau, Thích Ca phát huy tư tưởng này thành hệ thống lý luận, không chấp trước ở một bên. Ngài tự cho rằng, ta là "người phân tích, phân biệt "chẳng phải là người luận bàn thiên về một bên. Tư liệu đề cập đến quan điểm này, một cách sớm nhất là "Kinh Pháp Cú - Phẩm Nê hoàn", nói rằng, "Pháp qui phân biệt, chân nhân qui diệt". Ðây là sự chứng minh nội dung mà Phật nói trong nguyên thủy là "phân biệt luận giả". Học thuyết của Thích Ca có hay không có người thừa kế? Có người cho rằng, trước Phật Thích Ca vẫn còn có Phật, như Phật Ca Diếp, "Kinh Pháp Cú" là do Phật Ca Diếp truyền thừa. Cũng có người cho rằng, không phải chỉ có một vị Phật mà có tất cả là 4 vị Phật. Vua A Dục đã lấy 4 vị Phật này làm đối tượng tôn thờ. Sách Tham Khảo:
1.Lại Duy: "Phật kinh nguyên thủy đọc tụng pháp ", "Phật học nghiên cứu ", thiên thứ 2.
2. "Tứ phần luật", Quyển 54.
3. Lữ Trưng: "Ấn độ Phật giáo sử lược", chương 1, tiết 1.
4.Vô bách Duy: "Nguyên thủy Phật giáo đích nhược can vấn đề ", "Hiện đại Phật học" năm 1956, kỳ 10, 1957 kỳ 1.
* * *
3. Những Ðiểm Trọng Yếu Của Phật Học Nguyên Thủy Những tín đồ Phật giáo cho rằng, sau khi Thích Ca thành đạo, lần đầu tiên tuyên thuyết giáo pháp tại vườn Lộc Uyển, gọi đó là sơ chuyển pháp luân. Pháp luân là tỷ dụ, truyền thuyết Ấn độ cho rằng, ai có khả năng thống trị toàn cõi Ấn độ, tự nhiên có 'luân bảo' xuất hiện. Luân bảo này không gì lay chuyển được, vô địch không gì bằng. Nếu ai được luân bảo này, xưng là chuyển luân thánh vương. Khi Thích Ca chưa xuất gia, chính Ngài phải chọn một trong hai con đường, một là làm vua Chuyển luân thánh vương (nhà lãnh đạo quốc gia), hai là làm Pháp luân vương (nhà tư tưởng). Những lời dạy của Phật gọi là chuyển pháp luân, đồng thời biểu hiện chơn lý cao tuyệt của Phật đã giác ngộ. Tương truyền, lần đầu tiên Thế Tôn chuyển pháp luân, cho 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, thuộc thành Ba la nại. Nghiên cứu từ trong kinh luật cho thấy, lần đầu Thích Ca nói Pháp, không phải là pháp Tứ đế, mà chính là pháp Trung đạo, điều này phù hợp với sự thật, vì 5 người này vốn là những người cùng ngài tu hành khổ hạnh trước kia, sau đó Thích Ca từ bỏ đời sống khổ hạnh, để lại trong lòng họ suy nghĩ không hay về Ngài. Dĩ nhiên giáo pháp mà Thế Tôn nói với họ đầu tiên phải là phê bình đời sống khổ hạnh, cùng những học thuyết mà họ chủ trương, sau đó cùng họ giới thiệu học thuyết trung đạo, là con đường không khổ không lạc, đồng thời chứng minh khổ hạnh vốn không phải là phương pháp tu tập chơn chánh, chỉ có trung đạo mới là hợp lý. Sau đó nói giáo lý 'Bát chánh đạo' (Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định), sau khi thuyết phục xong,  mới tuyên thuyết giáo lý Tứ đế. Trọng tâm của giáo lý Tứ đế là trình bày sự thật về những hiện tượng trong cuộc sống con người. Toàn bộ đời sống con người không ra ngoài hai phương diện, một là nhiễm (khổ, tập), hai là tịnh (diệt đạo). Phương pháp tổ chức pháp Tứ đế, lấy khổ đế làm căn bản, 'tập' là sự tích tâp của khổ, 'diệt' là diệt trừ khổ đau, 'đạo' là phương pháp diệt trừ khổ đau. Thế Tôn nói pháp Tứ đế, nói đi nói lại pháp này cho đến 3 lần, 3 lần này được gọi là 'Tam chuyển pháp luân'. Chuyển lần đầulà khẳng định pháp tứ đế (nhân sanh là khổ, già chết là khổ v.v.); chuyển lần hai, chỉ rõ tứ đế là ý nghĩa sự thật của cuộc sống con người (khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu); chuyển lần thứ ba, là chứng minh Thích Ca đã chứng ngộ thành đạt được những gì mà tứ đế yêu cầu (Khổ đã rõ, tập đã đoạn, diệt đã chứng, đạo đã tu.). Trong 3 lần chuyển pháp luân, mỗi một lần đối với một đế đều có 4 loại nhận thức không giống nhau, gọi đó là 'Tứ hành tướng' -- Nhãn, trí, minh, giác, do đó Tứ đế có 12 hành tướng, gọi là 'Tứ đế 12 hành tướng'. Quan điểm này, là sự khẳng định những điểm cơ bản cũa nguyên thủy Phật học. Những tư liệu trong kinh luật được ghi chép như vừa trình bày, vào khoảng 200 năm, sau khi Thế Tôn nhập diệt, những sắc lệnh mà nhà vua A Dục còn lưu lại, đề cập đến việc này cũng như thế (Trong 'pháp lệnh' yêu cầu những tín đồ Phật giáo thường niệm một trong 7 kinh là: "Tỳ nại da tối thắng kinh ", căn cứ vào những tư liệu khảo cổ chứng minh, tức là đề cập đến tam pháp luân.). Về sau, Phật học phát triển đến giai đoạn Ðại thừa, có thể nói sớm nhất là "Kinh Duy Ma Cật", "Kinh Pháp Hoa" v.v. phần mở đầu của những kinh này, đều đề cập đến pháp Tứ đế, những kinh điển thuộc giai đoạn hậu kỳ đại thừa như "Kinh Giải thâm mật ", phân chia lời Phật nói thành 3 thời, thời thứ nhất cho rằng Phật nói Tứ đế. Từ đó có thể nói, Tứ đế là trung tâm tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy, đều này cũng được mọi người công nhận. Khổ đế trong giáo lý tứ đế, về sau phát triển thành 8 khổ: Sanh, lão, bịnh, tử, oán tắng hội, aí biệt ly, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn. Bốn loại khổ đầu là những loại khổ thuộc về tự nhiên, không ai tránh khỏi, những mong cầu của con người, thường ngược lại những qui luật này, như mong cầu không già, được trường sanh v.v. do đó mà sanh khổ. 3 chi kế tiếp, là những nổi khổ do mối quan hệ không hợp lý giữa người và người trong xã hội tạo thành, như chế độ phân biệt đẳng cấp của xã hội đương thời. Những người không hợp ý mà luôn luôn phải sống với nhau, những người thương yêu mà phải phân tán chia lìa, những yêu cầu vật chất thường không được như ý... những loại này đều được gọi là khổ (Từ góc độ này, chúng ta có thể thấy, Thích Ca phản ánh những hiện tượng xã hội đương thời). Nhưng thử hỏi nguồn gốc cái khổ của con người là gì? Thích Ca cho là 'cầu bất đắc'. Tại sao mong cầu mà không được là nguyên nhân của khổ? Thích Ca lại cho rằng, do bỡi '5 thủ uẩn', tức là Ngài phân tích sự cấu thành con người do 5 loại: Sắc -- Vật chất, thọ -- cảm tình cảm giác (gọi là tình), tưởng -- sự hoạt động của lý tánh khái niệm (gọi là trí), hành -- là hoạt động của ý chí (gọi là ý), thức -- thống nhất mấy loại trước. Nội dung của những loại này rất là phức tạp, sự tích tập của những thứ này gọi là 'uẩn', 5 uẩn cùng với 'thủ' (chỉ loại dục vọng cùng chấp trước) liên kết với nhau, từ đó sinh ra một loại tham dục, do đó cho nên gọi là 'ngũ thủ uẩn'. Căn cứ quan điểm của Thích Ca, con người sinh ra liền có 5 uẩn, có 5 uẩn tức là có khổ, do đó cho nên gọi 5 uẩn là khổ. Nguồn gốc của khổ này do tham dục (tập đế) mà sanh, đoạn trừ tham dục, tức đoạn trừ khổ (diệt đế), liền được giải thoát. Trong học thuyết Tứ đế của Thích Ca, duyên khởi là đặc tính xuyên suốt biểu hiện sự bất đồng quan điểm với những hệ thống triết học khác về vũ trụ. Khi Thích Ca còn tại thế, trong xã hội Ấn đã có hai loại tư tưởng chỉ đạo cuộc sống nhơn sanh: 1. Bà la môn, họ cho rằng, con người do Phạm thiên sanh, là sự chuyển hóa của thần ngã, gọi đó là thuyết 'chuyển hoá'. 2. Sáu phái triết học, họ cho rằng, con người là do nhiều yếu tố kết hợp mà thành (chủ trương của Thuận thế phái), gọi đó là thuyết 'Tích tụ'. Thích Ca phản đối 2 học thuyết này, chủ tương 'duyên khởi'. Ngài cho rằng, thế giới hiện tượng đều là sự quan hệ mật thiết về nhân quả, cùng làm điều kiện cho nhau trong sự tồn tại. Trong kinh Phật thường lấy bó trúc làm ví dụ để trình bày sự quan hệ của mọi sự vật. Nếu như lấy quan điểm này, giải thích những hiện tượng vũ trụ, thuyết minh quy luật tồn tại của vũ trụ là duyên khởi, như thế rất cụ thể và biện chứng. Nhưng lý thuyết duyên khởi này, không phải xuất phát từ sự quan sát vũ trụ, mà được phát hiện ngang qua đời sống con người, đồng thời cũng lấy nó làm điểm tựa căn bản để giải quyết những vấn đề của nhân sanh. Thích Ca đem con người phân chia thành nhiều chi phần. Theo sự ghi chép trong kinh gồm có 5 phần, 9 phần,10 phần, 12 phần v.v., đặc biệt Bắc phương phân chia nhiều nhất là 12 phần, gọi đó là 12 nhân duyên, về sau đại thừa Phật giáo cố định thành 12 nhân duyên, tức là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, aí, thủ, hữu, sanh, lão tử. Kết cấu này là vô minh làm duyên dẫn khởi hành. Do đó mà có công thức: "Thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh". Dựa vào thứ tự này, cấu thành mối quan hệ nhân quả. Người sau lấy 12 nhân duyên và luân hồi dung hợp thành tam thế lưỡng trùng nhân quả của Tiểu thừa : Quá khứ thế 'nhân' -- Hiện tại thế 'quả, nhân' -- Vị lai thế 'quả'. Thuyết 'lưỡng thế nhất trùng' của Ðại thừa : Quá khứ thế 'nhân' -- Hiện tại thế 'quả', hoặc là Hiện tại thế 'nhân' -- Vị lai thế 'quả'. Lý thuyết này, có phần hợp lý, vì trong hiện tượng, vốn là sự liên hệ 2 đời, trên nguyên tắc này, chúng ta có thể tìm ra mối quan hệ nhân quả của nó. Thí như, lão tử là quả, căn bản nguyên nhân của nó là 'sanh'. Theo sự ghi chép của kinh điển, Thích Ca quán sát nhân sanh, bắt đầu từ lão, tử' rồi suy diễn quán 12 nhân duyên. Trong Tứ đế lấy tham dục của tập đế làm trọng tâm, 12 nhân duyên lấy ái dục làm căn bản, nếu như muốn được giải thoát trước phải đoạn trừ ái dục. Thích Ca cho là, ái dục là vô cùng, không bao giờ biếy đủ, ngược lại, lòng mong muốn của con người thì vô cùng, chính lòng ham muốn này là nguyên nhân sanh ra khổ đau. Thích Ca cho là, hành vi và nghiệp lực của con người có sự liên quan mật thiết. 'Hành' là ý chí hành động có mục đích của con người, bản chất của nó là nghiệp. 'Nghiệp' có 3 loại: Thân, khẩu và ý, nếu như chúng ta thử đặt vấn đề, cái gì quyết định thành nghiệp? Lời giải đáp hẳn nhiên là do 'vô minh vô tri'. Chúng sanh vô tri cái gì? Thích Ca cho là, nhân sanh vốn là vô thường, nhưng chúng sanh yêu cầu 'thường', đây chính là 'vô minh vô tri'. Nhân sanh là vô ngã, vì nó vốn không thể tự sanh, do đó không có tự thể, giống như nhà do từ gạch, ngoái, cây, đá kết hợp mà thành, cũng vậy, con người do ngũ uẩn kết họp mà thành, nhưng ngược lại chúng sanh chấp trước có thật ngã, đây gọi là 'vô minh'. Chúng sanh do bỡi những loại vô tri này mà dẫn khởi hành động, là nguồn gốc của khổ đau. Thích Ca luận chứng, nhân sanh là 'vô thường' 'vô ngã', từ đó đề xuất 3 mệnh đề: Chư hành (chỉ hữu vi pháp) vô thường, các pháp vô ngã, tất cả đều là khổ. Ba mệnh đề này gọi là 'tam tướng', lại cũng gọi là 'Tam pháp ấn'. Ngoài tam tướng này, thêm một chi nữa là 'Niết bàn tịch tịnh', gọi là 'Tứ pháp ấn'. Cho rằng, trong vô thường, vô ngã đã bao gồm khổ, cho nên 'khổ' bỏ đi, vẫn còn lại Tam pháp ấn. 'Tam pháp ấn' lấy duyên khởi làm cơ sở phát triển. Duyên khởi bao gồm hai phương diện 'thuận' và 'nghịch'. Thuận là chỉ cho sự sản sinh đau khổ, nghịch là chỉ cho sự hướng đến Niết bàn. Thích Ca nói, ai hiểu duyên khởi, người ấy hiểu 'pháp'. Có thể nói, thuyết duyên khởi là điểm đặc trưng của Phật giáo. Tuy nhiên, có một số vấn đề Thích Ca vẫn chưa giải thích rõ ràng, Ví như, Lý thuyết Duyên khởi cũa Thích Ca chỉ nhằm mục đích thuyết minh về những hiện tượng trong đời sống con người, không chú trọng vào những mục đích khác, nhưng nó cũng có thể giải thích những hiện tượng khác, chẳng qua đem nguyên lý này phổ biến hóa mà thôi, như thế ắt hẳn sẽ có sự cải biến kết cấu của nó và lý tưởng Niết bàn. Thí dụ như, Thích Ca một mặt phủ nhận sự tồn tại tự ngã, đồng thời lại thừa nhận tác dụng của nghiệp lực. Thuyết nghiệp lực của Bà la môn là sự kết hợp thuyết luân hồi, nhưng Thích Ca đã phủ nhận chủ thể luân hồi, thế thì lấy gì để luân hồi? Ðây là vấn đề mâu thuẩn nội tại của học thuyết Thích Ca. Vì lý do đó, về sau, những người kế thừa tư tưởng của Ngài đã phát sinh sự phát triển không đồng nhất về tư tưởng. Thích Ca là người đôn hậu, thuyết nghiệp lực của Ngài cũng được biểu hiện rất cụ thể. Cuộc đời của Ngài phần nhiều thời gian ở tại nước Kiều Tát La, đã 2 lần ngăn cản sự tấn công vua Tỳ Lưu Ly đi với giòng tộc Thích Ca, cuối cùng cũng không sao tránh khỏi Thích Ca tộc bị diệt vong. Ngoài ra, Ngài đối với Bà la môn giáo, chế độ chủng tộc, biểu hiện sự không đồng lòng trong thái độ ôn hòa, điều đó biểu hiện tính từ mẫn của Ngài. Nguyên nhân là, Thích Ca chỉ là một nhà tôn giáo vĩ đại, không phải là một nhà cải cách xã hội. Sách Tham Khảo:
1- "Tạp A hàm kinh", quyển 15: "Ðế tụng".
2- "Trung A hàm kinh", quyển 7: "Phân biệt thánh đế kinh".
3- "Tạp A hàm kinh", quyển 12: "Duyên khởi tụng".
4- "Trường A hàm kinh", quyển 10: "Ðại duyên phương tiện kinh".
5- Lữ Trưng: "Ấn độ Phật giáo sử lược", thiên thứ nhất, chương 2.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.17/12/2014.