Đạo Hạnh Người Giảng Sư.
Công tác hoàng pháp đống một vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp duy trì Phật pháp. Điều này không thể phủ nhận, đồng thời nó cũng nêu lên vai trò và trách nhiệm người xuất gia
Nói đến bổn phận của người xuất gia đối với việc đưa đạo vào đời thì đương nhiên là không thể thiếu yếu tố trí tuệ. Muốn truyền cho Chánh pháp, trước hết phải am hiểu giáo pháp . Đó là hành trang , là chất liệu chủ yếu của vị tu sĩ cần truyền cho mọi người.
Tuy nhiên, trong cộng đồng tăng lữ, muốn cho tăng đoàn hoạt động nhịp nhàng, Phật pháp phát triển vững mạnh, thì cơ cấu của Giáo hội phải có nhiều ban ngành và các tu sĩ phảo đảm nhiệm mỗi Phật sự khác nhau . Trong đó , giảng sư là những người tri thức về Phật học và có khả năng nói chuyện trước quần chúng , điều này không phải ai cũng có thể làm được . Do vây , đội ngũ giảng sư bao giờ cũng ít hơn các bộ phận nhân sự khác trong tổ chức Phật giáo
Là giảng sư ai cũng đều mang tâm nguyện mong cho mọi người đều hiểu được Chánh pháp, ứng dụng vào cuộc sống để chuyển hóa thân tâm. Thế nhưng, đâu phải dễ dàng, đâu phải muốn là được. Vì vậy, người xuất gia phải tạo nên sức thuyết phục từ bản thân mình, phải tạo cho thính chúng có niềm tin về người truyền thừa mạng mạch Phật pháp, tọ cho họ lòng mong muốn đến với chúng ta để tìm hiểu giáo lý Phật-đà .Sức thuyết phục ấy được biểu hiện rõ nét nhất qua phong cách, đạo hạnh của một vĩ giảng sư . Đây là yếu tố đầu tiên mà người làm công tác giảng dạy cần phải có. Do đó muốn hoằng pháp lợ sanh , trước hết người hoằng pháp, dù trong thời đại nào, cũng phải kiện toàn những phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm tu tập cho mình phải có dược ít nhiều chất liệu giải thoát và an lạc thực sự
1 . Đạo hạnh là gì ?
-Đạo: là đức; Hạnh: là tính nết. Đạo hạnh là hành vi có đạo đức và tính nết tốt (Từ điển Hán Việt từ nguyên, Bửu kế , NXB Thuận Hóa , 1999, tr 542 ).
- Đạo hạnh cũng gọi là đạo nghiệp , nghĩa là tu thành Phật đạo ( Huệ Quang tự điển ,Hòa Thượng Minh Cảnh chủ biên: Tập 2, mục 5185, trang 1409).
- Giảng sư :Người truyền đạt kiến thức nói chung và vị thầy giảng đạo cho mọi người hiểu rõ về kiến thức Phật pháp nói riêng.
Như vậy , Đạo hạnh của gai3ng sư là người xuất gia tu hành theo Phật đạo , đã hoàng thành phẩm chất đạo đức của mình và đủ tư cách , đủ kiến thức đứng trên pháp tòa truyền đạt kiến thức Phật pháp cho mọi người.
2. Yếu tố cần và đủ của vị giảng sư :
Người xuất gia muốn hoàn thành sứ mạng hoằng pháp , muốn phát huy quang đại trên lộ trình đi đến mục đích tự lợi lợi tha, không thể thiếu yếu tố, thân giáo khẩu giáo và ý giáo, phải thông suốt Tam tạng kinh điển đạo hạnh được sáng ngời, giới luật trang nghiêm lấy trí tuệ làm sự nghiệp, từ bi bình đẳng làm phương châm tiến thủ. Ngoài những công hạnh đó, những pháp thế gian, chẳng hạn như bằng cấp, học vị không nên đặt nặng mà mất đi tinh hoa của đạo pháp.
Ba yếu tố cần và đủ của một vị giảng sư là phải có niềm tin sâu sắc đối với Tam bảo , kế đến rèn luyện tự thân , tu tập trao dồi đức hạnh , và cuối cùng đêm lại lợi ích an vui đến cho mọi người .
2.1 Chánh tín Tam bảo:
a) kính tin Tam bảo:
Pháp này cần được phát huy sâu rộng trong suốt quá trình tu tập của chúng ta, cho đến ngày đạt quả vị Niết – bàn , bởi niềm tịnh tín Tam bảo là nhân tố quan trọng để làm nền tảng cho sự tu tập, hướng thiện , Trước nhất , người tu sĩ cần xây dựng niềm tin căn bản trên ngôi Phật bảo. Vì nếu Đức Phật không hiện hữu trên cuộc đời này , thì Pháp và Tăng cũng không có, đạo phật cũng nương đâu mà phát và chúng ta cũng không là đệ tử Phật.
Tin Đức Phật, bậc tiềm ra con đường gỉai thoát ra khỏi mọi hình thức khổ não của kiếp sống triền mien luân hồi trong sinh tử , Với lòngg từ bi vô lượng, Ngài đã chỉ dạy rõ ràng cho chúng sinh về con đường, là những lời dạy quý của Ngài .
Tin Pháp bảo là những vị đã có niềm tin nơi Đức Phật, lắng nghe và thông hiểu lời dạy, nổ lực hành trình và chức đắc các đạo quả cao thượng. Điều quang trọng là tin tưởng nhưng không bao giờ quênchiêm nghiệm , thực chứng những điều đã học được và nhất là tin tưởng ở chính mình , ở khả năng tự giác của chính mình
b)Ướt nguyện :
Khi đã có niềm tin Tam bảo và tin và khả năng tự giác của mình, chúng ta phải hình thành ước nguyện nơi mình. Đó là hoài bão “ Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh “, lấy giáo pháp của Đức Phật để rèn luyện chính mình , trang nghiêm tự thân; lấy chúng sanh làm đối tượng ; để hóa độ. Chúng ta phải thấy rõ tiêu chí mà mình nhắm đến và luôn trung thành với nó cho đến trọn đời, Không nên đánh mất lý tưởng của mình, để rồi sai lạc vào cơm áo, danh dự, lợi dưỡng … mà phải ướt nguyện đoạn trừ các kiết sử, thoát ly sanh tử luân hồi.
Người tu Phật có ý chí mạnh mẽ với mục tiêu đạt Niết – bàn thì lẽ cố nhiên dù làm việc gì suy nghĩ điều gì hay mong mỏi sự gì đều không được rời xa mục tiêu gải thoát. Trong đời sống thường nhật của người xuất gia , chúng ta không nên có ươc muốn đi lệch với tiến trình giải thoát giác ngô , tiệm cận với phiền não nhiễm ô. Vì như thế chúng ta sẽ bị thoái đọa , chắc chan81n sẽ trở về với đời sống thế tục. Chúng ta chỉ nên ước muốn việc gì hợp chánh pháp và hướng đến mục đích tối thượng. Một khi đã xây dựng cho mình một lý tưởng cao đẹp thì vấn đề còn lại chỉ là thời gian mau hay chậm mà thôi . Điều này tùy thuộc và sự nỗ lực tinh tấn tu tập của mỗi cá nhân .
2.2 Rèn luyện tự thân
a. Học Phật pháp
Trong việc hoằng pháp , người xuất gia không thể xem nhẹ “Phật học”. Sự thực hành giáo pháp bao giời cũng phải nương vào việc học Phật pháp bao giời Phật pháp thông suốt, bấy giời sự hành trì mới tỏa sáng và con đường Thánh đạo mới hiển lộ.
“Này Tỷ -Kheo! Có năm pháp đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn loankhông biến mất. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo thuộc long kinh điển được nắm giữ tốt đẹp, với những căn cú được phối trí chân chánh, và ý nghĩa được hướng dẫn chân chánh. Đây là pháp thứ nhất , này các Tỷ-kheo đưa đến diệu pháp an trú không hỗn loạn “
Mặt khác , người giảng sư muốn kiện toàn tự thân , trước nhất cần phải có chánh kiếnhay nói cách khác thấy biết một cách chơn chánh về đường lối tu học của mình . Đồng thời cũng nên trang bị kiến thức thế học một cách căn bản, cần cập nhật hóa ngôn từ cùng những thông tin đại chúng. Nhờ có kiến thức thế học giúp chúng ta có tầm nhai2n sâu rộng và nghiên cứu học tập giáo lý dễ dàng hơn. Điều quang trọng là luôn giữ được “gốc Phật lý “ , Ở dây chúng ta học vì mục đích làm giàu tri thức, để có sự hiểu biết vững vang hổ trợ cho sự tu học , chứ không phải vì học vị hay bằng cấp. Người xuất gia chân chinh hay người xuất gia đúng nghĩa đúng nghĩa là người thật tu thật học
b) Nội tâm tu tập
Có thển nói rằng , đây là phẩm chất quang trọng nhất đối với một tu sĩ Phật giáo nói chung và giảng sư nói riêng. Nội lực này là thành quả của một quá trình học tập và ứng dụng giáo lý của đức Phật vào trong đời sống hằng ngày ngan qua ba nghiệp thân khẩu ý. Sự tu tập ở đây lấy Giới-Định-Tuệ làm nền tảng. Trong Trường Bộ Kinh tập 1, kinh Đại Bát Niết bàn số 16, Tụng phẩm VI , có đoạn ghi : Lúc đức Phật sắp nhập diệt , Tôn giả Anada bạch Phật , sau khi Như Lai Niết –bàn, Tăng đoàn sẽ lấy ai làm thầy, Đức Phật dạy:” Này Anada, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Anada , Pháp và Luât, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính pháp và luật ấy sẽ la Đạo Sư của các ngươi “
Đối với người xuất gia, yếu tố đầu tiên trên bước đường tu không thể thiếu hành trình giới luật , giới luật như khuông vàng thước ngọc để phẩm định, phân biệt hành động đúng sai, đặc điểm tốt xấu của con người. Nhờ giữ giới mà tu sĩ mới có những phẩm hạnh đánng kính, mới tạo nên tố chất đạo đức của vị chơn tu.
trong kinh Đại Niết Bàn thuộc Trường Bộ kinh, Đức Phật đã kính lệ như sau :
“Đây là giới. đây là định, đây là tuệ. Định khi được tu tập viên mãn dựa trên giới sẽ đem lại quả lớn , lợi ích lớn . tuệ khi được tu tập viên mãn dựa trên định sẽ đem lại quả lớn , lợi ích lớn . Tâm khi được tu tập viên mãn với trí tuệ sẽ hoàn toàn giải thoát khỏi dục lậu , hữu lậu , kiến lậu và vô minh lậu “
Tất cả chúng ta ai cũng có tâm . Nếu chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình , đụa trên giới , thì sức mạnh của tâm có định ấy sẽ vô cùng kỳ diệu .Thế nên , việc gìn giữ giới luật để nhiếp phục thân , khẩu ý cần phải được tiến hành một cáh miên mật trong bốn oai nghi : Đi , đứng , ngồi và nằm .Dúng như lòi các bậc cổ đức thường dạy :
“Đi cũng thiền , nằm cũng thiền – Động tịn nói nín thảy an nhiên “
Mỗi bước đi của người xuất gia đều nhẹ nhàng, khoan thai, thảnh thơi và tự tại. trong lúc ngồi thì an ổn, vững chãi như núi Tu-di. Khi đứng thì đoan nghiêm, tề chỉnh và lúc nằm thì kín đáo, thanh tao. Như vậy, chính đời sống đạo hạnh, khéo hộ trì thân khẩu ý trong bốn oai nghi , mà thân và tâm của người xuất gia luôn được thuần tịnh , an lạc và giải thoát .
Giảng sư là người thay Phật tuyên dương chánh pháp , vì thế đòi hỏi bậc mẫu mực không thể thuyế phạm về đạo hạnh . Nếu cuộc sống phạm hạnh của vị giảng sư khiếm khuyết thì sẽ ảnh hưởng đến tiêu cực vô cùng đến tín tâm của Phật tử và uy tính của tăng đoàn . Một “sự sụp đỗ thần tượng “ sẽ khéo theo sự thất vọng , thoái tâm của phật tử , thậm chí sự bất mãn của Phật tử , tín đồ . Trái lại , nếu tư cách của một tu sĩ Phật giáo biểu mẫu về d0ao5 đức và trí tuệ thể hiện tính chất “Tri thành hợp nhất “ , nói làm sao vậy , làm sao nói vậy từ cuộc sống của những nhân cách này sẽ khiến cho niềm tin của tín đồ , quần chúng trở nên kiên cố đối với Tam bảo .
Đây chính là sức mạnh của nội tâm mà bất cứ người nào nói chúng , người giảng sư nói riêng , cũng cân phải bổ lực trau dồi được trọn vẹn toàn Sauk hi chúng ta trãi qua quá trình tu học , kiện toàn giới định –tuệ , trở thành bậc mô phạm sư trong kính Pháp Cú câu 54
“hương các loài hoa thơm ,
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời
Hoàn tất bước thứ nhất “Thượng cầu Phật đạo “. Đến đây chúng ta tiến them bước nữa “Hạ hóa chúng sanh “, thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng đem đạo vào đời cũa người con Phật . Bởi vì, hoài vọng của đức Phật “vì lợi ích cho số đông , vì long thương tưởng cho đời , vì hạnh phúc và n lạc cho chư thiên và loài người “
Giáo pháp của Ngài là phương pháp sống thực tiễn , không thể tách rời con người . Và chính những tu sĩ là người thực thi phần việc “Nghiên vai gánh đạo vào đời , cho đời tỏa đạo ta người đồng tu “ .Thực hiện được điều này , phần nào chúng ta đã dền được ân Phật , ơn Tổ , ơn Thầy , trong muôn cột . Cố Ni trưởng Huynh lien có dạy :
Ta đã là người của chúng sanh
Người nuoi6ta để học gương lành
Sống đây ta sống cho muôn loài
Ta có quyền sống đâu sống lấy mình ,…
Hơn bao giờ hết , người xuất gia hiểu rất rõ , chúng ta là người của vạn loại , sống nhờ sự dưỡng nuôi của đàn na tín chủ để học theo hạnh của chư Phật làm , nói những gì Phật nói và đi theo con đường đức Phật đã đi . Là sứ giả của Như Lai phải làm nhiệm vụ là gạch nối để đem pháp phật đi vào lòng quần chúng . Do đó taa không được quền sống ích kỷ , sống cho riêng mình , vì như thế không có ý nghĩa của bậc Thích tử
Chúng ta biết rằng , cuộc đời này luôn cần ánh sáng . Ánh sáng không phải từ ngọn đèn , từ trăng từ sao , từ mặt trời mà từ trái tim của những người hoằng pháp , đây mới là ành sáng để soi vào thế giang này . Bao thế hệ đã đi qua, từng ánh sáng đã đến với trần thế rồi vụt tắt . Vì vậy mỗi người trong chúng taa đều phải thắp lên trong tim mình hạnh nguyện mang ánh sáng giác ngộ cho đến trần giang này
3 vai trò của vị giảng sư trong xã hội :
3.1 Đóng góp cho xã hội
Xã hội ngày nay với những tiến bộ nhiều mặt của thời đại , nhưng kèm theo là sự thoa hóa lối sống , băng hoại đạo đức xã hội . Vị giảng sư đứng trướng khủng hoảng xã hội về môi trương sinh thái , bệnh dịch HIV/AIDS bệnh đồng tính luyến ái , nạn mại dâm , chiến tranh bạo dộng khủng bố , tình yê tinh dục và hôn nhân … không những cần nắm bắt thấu đáo về các tình huống xã hội và tính khi con người , mà cón phải khéo léo thực hiện làm thế nào để giảm bớt nỗi khổ đau và khủng hoãng xã hội.
Chẳng hạn trong những buổi thuyết giảng cho hội chúng tu tập , chúng ta cần triển khai sâu về năm nguyên tắc đạo đức , con người cần thiết lập để hướng thiện , hướng chi1nh thượng và cũng chính từ đây có thể dẫn đến Phật hóa gia đình . Đồng thời nên đưa và những đề tào gải thích súc tích và hợp lý cho con người thấy được giá trị và tầm quang trong thực tế môi trường sinh thái , giảng giải cho họ hiểu rõ ràng về ỳ nghĩa và nguyên nhân bệnh dịch HIV/AIDS . Mặc khác khuyến khích hướng dẫn họ tâp tu lòng từ và sự đồng cảm vì hòa bình, hạnh phúc và an lạc thật sự cho mình và cho tất cả chúng sanh để trách tác nhân gây chiến tranh , bạo động và khủng bố làm giảm tai họa cho con người xã hội . Bên cạnh đó cũng cần thực hiện các công tác từ thiện phân nào giúp ổn định an sinh xạ hội , đem lại hạnh phúc an lạc cho mọi ngươi .
3.2 Hưng thịnh đạo pháp :
Như đã nói việc bảo vệ Phật pháp trường tồn có công đức rất lớn , là sự đền on chân chính đối với Phật hay đối với tứ trọng ân và cũng là trách nhiệm của những người tu sĩ Phật giáo . Nếu không có những người xuất gia tu hành chân chính . chắc chắn Phật pháp sẽ mai một . Có một số quốc gia , khi Phật pháp suy tàn , không còn nhiều người hie63i Phật pháp thì đạo Phật biến mất giữa thế gian . Chình vì thế , vị giảng sư sau khi tu học thực hành rất nhiều đạo lý Phật dạy , vị ấy phải tích cực đi vào cuộc đời để đem ánh sáng đạo lý tươi tẩm cho bao tâm hồn bị hệ lụy khổ đau . Cho nên một người tu sĩ sống thanh tịnh đạm bạc là những viên ngọc quý , họ giữ được ánh sáng đạo lý để soi sáng cho thế giang này , để thắp sáng cái ước mơ , cai lý tưởng đức hạnh về sự giác ngộ giải thoát vào trái tim của bao nhieu con người khác . Chính những người xuất gia tu hành chân chính là những người bảo vệ làm cho Phật pháp được trường tồn .
Tóm lại , ngườ giảng sũ muốn truyền bá chánh pháp dễ dàng thì việc học rộng là chưa đủ. Điều đầu tiên là bản thân vị giảng sư phải biểu hiện được nét đẹp phong cách qua tấm lòng vị tha, khoang dung , nhu nhuyến , hài hòa , hung mạnh và tinh khiết, thì mới tạo nên niềm tin vững chắc cho tha nhân . Nét đẹp ấy sẽ từng bước đưa người giảng sư gần giũ với mọi người tiến trên lộ trình giải thoát, thành tựu được hoài bão duy nhất mà người giảng sư luôn ấp ủ trong lòng.
Một vị giảng sư Như Lai trên pháp tòa, ban mưa pháp nhưng trong lòng vẫn tỏa ra một sự thanh thoát trang nghiêm, khiến mọi người chỉ cần nhìn vào là sanh lòng cảm mến và đó là động lực đưa mọi người đến với đạo, tu tập theo giáo pháp. Đây chính là nét đẹp khoái tục quan yếu nhất của người giảng sư.
Kính chúc chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, chư Ni tưởng, Ni sư, chư đại đức Tăng Ni, vô lượng an lạc, vô lượng kiết tường.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.29/10/2014.
No comments:
Post a Comment