HOẰNG PHÁP 26: THÀNH CÔNG.    
  1. Một giảng sư thành   công  
  Nếu ta có duyên phước   từ đời trước, nếu ta   biết nổ lực trong đời   này, ta sẽ có những   thành công nhất định trong   sự nghiệp hoằng pháp diễn   giảng. Được gọi là thành   công khi các bài giảng   của ta được nhiều người    đón nhận, khen ngợi và   giới thiệu lẫn nhau.  
  Ngày xưa, hội chúng chỉ    nghe giảng sư thuyết một   lần duy nhất, ít khi    được nghe lập lại. Họ    nhớ được bao nhiêu thì   nhớ, còn không thì quên.   Nếu may mắn nghe một   bài pháp hay, họ được   cái cảm xúc lúc đó,    đến khi ra khỏi hội   trường, chỉ còn nhớ vài   ý chính. Nhưng rồi họ    cũng giới thiệu về vị    giảng sư lỗi lạc kia,   nói về đạo lý kia,   cho nhiều người cùng biết.   Chính vì lệ thuộc vào   cảm xúc và trí nhớ    của những người nghe nên   sự giới thiệu hoặc truyền   bá bài giảng rất hạn   chế.  
Ngày nay, nhờ phương tiện   kỹ thuật cao, bài giảng    được ghi lại trên các   loại hình như Tapes, CD,   Memory stick, Hard drive, Server...   Nếu không nhớ, người ta   có thể mở máy ra   nghe đi nghe lại bài   giảng đó nhiều lần. Họ    cũng có thể đem các   loại phương tiện truyền thông   Multimedia điện tử như thế    giới thiệu cho các bạn   bè, gia đình thân quyến   khiến cho nhiều người được   nghe thêm. Thật ra, số    người được nghe trực tiếp   bài giảng rất ít, hầu   hết người ta được bài   giảng trở lại qua các   phương tiện truyền thông Multimedia.   Với các kỹ thuật Multimedia   hiện đại, bài giảng được   lưu bố vô biên, được   lưu giữ vô thời hạn.   Sự giới thiệu truyền bá   bài giảng thật là tiện   lợi.  
  Chính vì thế, ngày xưa   sự thành công của giảng   sư không đáng kể, còn   ngày nay, sự thành công   của giảng sư là bùng   vỡ mênh mông.  
  Giảng sư ngày nay, nếu   có những bài giảng hay,    được ghi lại trên các   Multimedia Record, được lưu bố    rộng rãi, sẽ được rất   nhiều người biết đến. Danh   tiếng cho một giảng sư    giỏi của thời đại hôm   nay là vô cùng lớn   lao. Chính vì danh vọng   chất ngất như thế nên   sự nguy hiểm cũng bội   phần nặng trĩu. Ta không   thể biết trước sự nghiệp   hoằng pháp của ta có   thành công hay không, nhưng   ta phải chuẩn bị trước   tinh thần nếu mai này   lỡ xui, ta được thành   công rực rỡ thì ta   phải có những tâm hạnh   gì, những thái độ gì    để ứng xử cho thích   hợp. Dĩ nhiên ta không   muốn kiêu ngạo, ta không   muốn khinh người, ta không   muốn đánh mất đạo đức,   nhưng sức ép của danh   vọng luôn dồn ta vào   ngõ cụt đó, luôn dồn   ta đi vào sự kiêu   hãnh và hưởng thụ. Nếu   không có một đạo tâm   vững chắc, một trí tuệ    tỉnh táo tinh tường, ta   sẽ tự giết chết sự    nghiệp diễn giảng hoằng pháp   của mình không bao lâu.  
  Sự thất bại của ta   sẽ là sự đổ vỡ   đạo tâm của rất nhiều   người trong cuộc đời, nhất   là những người đã từng   thần tượng ta, từng quý   kính ta. Do vậy, tội   của ta sẽ là rất   nặng. Ngay từ bây giờ,    dù chưa thành công, ta   phải chuẩn bị trước các   hành trang,"vũ khí" để chiến    đấu với... chính mình sau   này. Kẻ thù nguy hiểm   nhất lúc  
đó sẽ là chính ta.  
  2. Hệ quả và khắc   phục  
  Thành công đẻ ra các   hệ quả tâm lý bất   thường. Các hệ quả tâm   lý bất thường đó làm   mất đi sự cao đẹp   của hình ảnh một vị    giảng sư. Ta sẽ nhận    định rõ để... chiến đấu.  
  Kiêu mạn sẽ là hệ    quả đầu tiên khi ta   thành công. Thật vậy, sau   khi thành công, bất cứ    lĩnh vực nào, con người   vẫn dễ bị bệnh kiêu   mạn. Những ca sĩ được   nhiều người ái mộ hay   bị bệnh sao, nghĩa là   ngang tàng, bướng bỉnh, bắt   người khác phải chìu mình,    đỏng đảnh, vòi vĩnh, lên   giá... làm những người cộng   tác rất khổ sở. Ta   cứ tưởng hễ làm nghệ    sĩ thì ai cũng ngang   ngang một chút cho vui,    đâu ngờ rằng cái ngang   ngang đó là hệ quả    của lối sống cảm tính,    được người ái mộ.  
Một số doanh nhân thành    đạt cũng bị bệnh kiêu   ngạo, thay đổi tính cách,   khinh người hơn, hách dịch   hơn.  
  Giảng sư có những bài   giảng được ca tụng cũng   sẽ bị hệ quả tương   tư, dù kín đáo hơn   một chút. Ta sẽ cho   mình là trí tuệ tài   giỏi, nghĩ rằng bao nhiêu   người khác thua kém mình,   cho rằng thiên hạ phải   học hỏi với mình, cho   rằng mình là biểu trưng   của thời đại v.v...  
  Sở dĩ ta kiêu mạn   chỉ bởi vì ta trí   tuệ ta ít quá, không   hình dung nổi trí tuệ    của các bậc thánh như    thế nào. Nếu có trí   tuệ thêm một chút, hình   dung ra được trí tuệ    của thánh, ta sẽ ngượng   ngùng, hỗ thẹn vì biết   mình chưa bằng ngón chân   của các ngài.  
  Hậu quả của tâm kiêu   mạn thật là khủng khiếp.   Ta sẽ bắt đầu rơi   từ thất bại này đến   thất bại khác, trí tuệ    ta sẽ giảm sút nhanh   chóng, tâm thần ta sẽ    bất ổn dần dần, có   khi bị điên hẳn luôn.   Vì vậy, để chuẩn bị   đón sự thành công lớn   lao ở tương lai, chúng   ta hãy vui lòng tiêu   diệt tâm kiêu mạn trước    đã. Ta phải hình dung    được sự siêu phàm của   các bậc Thánh mà cả    nghìn kiếp nữa ta chưa   chắc bằng được. Nhờ vậy   ta sẽ bớt được tâm   kiêu mạn khi được nhiều   người ca tụng.  
  Còn đối với hàng hậu   học kém hơn ta thì   ta phải có tâm thương   yêu dìu dắt chứ không    được có tâm xem thường.   Sẽ nói thêm phần sau.  
  Sự hưởng thụ cũng làm   ta mất phước. Điều này    đã được nói ở bài   trước nên bây giờ không   lập lại nhiều.  
  Tâm lý sợ người khác   vượt lên bằng hoặc hơn   mình cũng là một loại   tâm hẹp hòi bất thiện   mà ta phải khắc phục.
Con người hay thích độc   quyền trong thành công, không   muốn có người khác cũng   thành công như vậy. Đó   là sự ích kỷ cố    hữu tồi tệ của con   người. Ta phải diệt trừ    tâm lý bất thiện đó   một cách triệt để, vì   nếu không, ta sẽ là   người cản đường đàn em   tiến lên. Ta phải khắc   phục tâm lý bất thiện    đó bằng cách hằng ngày   cầu nguyện cho có nhiều   người giỏi hơn ta sẽ    bước ra gánh vác chuyện   Phật Pháp khiến cho Phật   Pháp được hưng long, chúng   sinh được lợi ích.  
  Tệ chê bai giảng sư    khác cũng là một điều   nhức nhối trong Phật Pháp.   Khi chưa có tiếng tăm,   ta khiêm tốn kính trọng   các giảng sư khác. Đến   khi có chút tiếng tăm   rồi, ta bày đặt chê   bai vị này vị kia    để muốn giành phần hơn   cho mình. Tệ nạn đó   làm Phật Pháp bị chia   rẽ và suy yếu, và   dĩ nhiên, ta cũng hết   phước nhanh chóng luôn. Đối   trị với tệ này, ta   phải phát nguyện tôn trọng   và hỗ trợ các giảng   sư khác cùng làm Phật   sự dù là chưa biết   mặt nhau hay đã quen   biết nhau.  
  3. Trách nhiệm nhiều hơn  
  Ngoài việc khắc phục các   tâm lý bất thiện nảy   sinh sau khi thành công,   ta còn có nhiều trách   nhiệm phải làm đối với   Phật Pháp. Thành công có   nghĩa là trách nhiệm nhiều   hơn chứ không phải hưởng   thụ nhiều hơn. Vì sao,   bởi vì ta còn phải   làm vô lượng công đức   cho đến ngày viên mãn   Phật quả chứ không được   tự mãn giữa đường. Người   vội vàng hưởng thụ vì   không nhận ra được rằng   còn có một mục đích   lớn lao ở phía trước   mà chỗ đến hiện tại   chỉ là một nhúm cát   bụi bọt bèo.  
  Hơn nữa, sự thành công   của ta còn là sự    góp công của biết bao   người phía sau. Nào là   sư trưởng thầy tổ, nào   là huynh đệ đồng môn,   nào là đàn na tín   thí, nào là môi trường   của xã hội và giáo   hội, nào là cha mẹ    gia đình, và cao hơn   cả là sự gia hộ    của Tam Bảo. Mang ân   nghĩa của biết bao người,   ta phải có trách nhiệm   lo cho Phật Pháp nhiều   hơn để đền đáp các   công ơn trời biển đó   chứ không được quyền hưởng   thụ.  
Hỗ trợ cho các pháp   sư chân chính khắp nơi   là trách nhiệm hàng đầu   của một giảng sư khi    đã thành công. Song song   với ta còn rất nhiều   pháp sư Phật học cũng    đang ngày đêm hoằng truyền   chánh pháp, có những vị   đã thành công, có những   vị chưa thành công. Nếu   ta đã thành công rồi   thì bổn phận của ta   là phải hỗ trợ cho   các giảng sư đó dù   ta chưa hề gặp mặt.   Dĩ nhiên ta chỉ ủng   hộ những vị giảng đúng   với chánh pháp chứ không    ủng hộ tràn lan mà   mang tội. Khen không đúng   người cũng mang tội (Nikaya).  
  Khi đã xác định đó   là một giảng sư chân   chính rồi thì thỉnh thoảng   có dịp ta nên đưa   ra vài lời ca ngợi    để ủng hộ tinh thần   cho các vị giảng sư   đó. Thái độ như thế    khiến cho Phật giáo ngày   càng đoàn kết hơn.  
  Hoặc có khi ta nhường   hội giảng của ta cho   vị đó để cho thay    đổi không khí, khiến thính   chúng sẽ bất ngờ hoan   hỷ hơn.  
  Hoặc khi có dịp trao    đổi với nhau, ta cũng   nên đề nghị vị đó   những điều cần thiết trong   kinh nghiệm diễn giảng, hoặc    đề nghị vị đó giảng   những đề tài thích hợp   tại khu vực của vị   đó. Dĩ nhiên ta cũng   khiêm tốn học hỏi những   cái hay của vị đó   mà mình chưa có.  
  Nếu gặp Phật tử gần   nơi sinh hoạt của vị   đó, ta cũng nên khuyến   khích Phật tử tìm đến   nghe vị đó giảng thuyết   v.v...  
  Nói chung cách ta hỗ    trợ lẫn nhau là như    thế một khi ta đã   có tiếng nói trong lòng   của quần chúng. Đó thật   là một đạo Phật tuyệt   vời cao cả.  
Tận tình dìu dắt đàn   em mới thật sự là   nhiệm vụ của người đã   thành công.  
  Lúc nào ta cũng phải   mong ước trong lòng là   sẽ có người đến sau   ta, vượt lên hơn ta,   tu tập tốt hơn ta,   thuyết giảng giỏi hơn ta,   làm rạng danh Phật Pháp   nhiều hơn ta, đem lại   lợi ích cho chúng sinh   gấp bội lần ta. Nếu   ta không có điều mơ   ước đó ở trong lòng   mình thì ta chưa xứng    đáng là đệ tử của   Phật. Ngược lại, nếu ta   trù dập đàn em, không   cho đàn em phát triển   thì ta đúng là kẻ    phá hoại Phật Pháp. Như    vậy, sự nghiệp hoằng pháp   của ta sẽ không thành   công lâu, ngày lụi tàn   sẽ xuất hiện.  
  Muốn dìu dắt đàn em   thì trong khi làm công   việc hoằng pháp diễn giảng,   ta phải thường xuyên rút   ra những nguyên tác, phương   pháp, lý luận, kinh nghiệm   của công tác đó. Những    điều rút ra được sẽ   được tích lũy dần để    trở thành sách giáo khoa   hướng dẫn cho đàn em.   Những khi hướng dẫn Tăng   Ni về công tác hoằng   pháp diễn giảng, ta phải   hết lòng tỉ mỉ giúp   cho Tăng Ni nắm vững   vấn đề để tránh những   sai lầm vấp ngã trên    đường đi.  
  Nếu ta có duyên làm   công tác giáo hội thì   cố gắng tổ chức các   khóa đào tạo cán bộ    hoằng pháp diễn giảng thường   xuyên để nâng cao trình    độ của Tăng Ni trong   việc hoằng pháp.  
  Ta nên khuyến khích Tăng   Ni tìm về các vùng   sâu vùng xa để giáo   hóa vì ở những nơi    ấy rất thiếu thốn đạo   lý. Song song với việc   khuyến khích Tăng Ni về    giáo hóa vùng sâu vùng   xa, ta phải có biện   pháp hỗ trợ về đời   sống vật chất để Tăng   Ni bớt vất vả. Ta   phải tạo thành một nề    nếp mới trong đạo Phật   là, nếu nghe nói ai   là Tăng Ni đến từ    vùng xa thì ta phải   quý mến, ưu tiên, dành   mọi sự giúp đỡ cần   thiết. Phật tử cũng phải   có thái độ như thế.    Các chùa thì lại càng   phải đậm đà hơn trong   việc ưu ái cho Tăng   Ni đến từ vùng xa.   Nhờ thái độ ưu ái   này mà từ đây Tăng   Ni ra trường sẽ có   sức mạnh để đi về    miền xa làm công tác   hoằng pháp cho Giáo hội.  
  Nơi vùng xa, Tăng Ni   sẽ có dịp đối mặt   với các khó khăn thử    thách để giữ giới hạnh   trong sạch, kiên cường vượt   qua gian khổ để giáo   hóa chúng sinh, nhất là   anh em đồng bào sắc   tộc thiểu số. Nhờ kinh   qua trong gian khó mà   Tăng Ni được tăng trưởng   công đức, bản lĩnh dày   dạn, đóng góp được nhiều    đối với Giáo hội hơn.  
  Nhưng điều quan trọng trong   việc khuyến khích Tăng Ni    đi về miền xa vẫn   là sự quan tâm giúp    đỡ của các vị tôn   túc trưởng thượng. Tâm của   những vị trưởng thượng phải   luôn hướng về vùng xa,   nơi có những đàn em   của mình đang phải vất   vả gian nan đem hạt   giống lành của đạo lý   mà gieo rắc khắp nơi.  
  Những ai đã thành công   rồi thì phải dìu dắt    đàn em như thế, trong    đó, tạo điều kiện cho   Tăng Ni đi thật xa    để có cơ hội giáo   hóa và đối diện nhiều   gian khó, và phải giúp    đỡ Tăng Ni hoàn thành   nhiệm vụ.  
Nghĩ đến vận mệnh Phật   Pháp lâu dài là trách   nhiệm của những pháp sư    thành công. Những bài giảng   của ta không còn là   chỉ để đáp ứng nhu   cầu tu học trước mắt   của thính chúng nữa, mà   thực sự phải nằm trong   sách lược xây dựng Phật   Pháp lâu dài về sau.   Ta phải lường trước những   năm tháng tới thế giới   sẽ đi về đâu, các   tôn giáo bạn sẽ phát   triển như thế nào, tình   hình xã hội sẽ chuyển   biến theo hướng nào... để    chuẩn bị cho các giáo   lý thích hợp.  
Đặc biệt ta phải chú   trọng tới thế hệ trẻ,    những người còn nhiều thời   gian để sống và tu   hành. Lớp trẻ cần được    định hướng tốt để sống   và tu và giữ gìn   Phật Pháp. Thiếu lớp trẻ    biết Phật pháp thì xã   hội sẽ kém đạo đức,    đạo Phật không có người   kế thừa phát huy. Vì   vậy, những bài giảng liên   quan nhiều tới lớp trẻ    phải được tuyên giảng thường   xuyên.  
  Ta cũng chú ý tới   lớp trí thức vì đây   là lớp người có khả    năng đang đóng góp nhiều   cho xã hội. Nếu tầng   lớp trí thức hiểu đạo   thì họ sẽ đóng góp   tốt hơn cho đạo cũng   như cho đời. Các bài   giảng dành cho tầng lớp   trí thức phải rất sâu   sắc, hợp lý, đủ kiến   thức, và cũng rất đầy    đạo vị.  
Ta cũng chú ý tới   lớp người lớn tuổi, giúp   cho họ biết tu hành   phù hợp với tuổi tác   nhưng không đi vào thụ   động, lạc hậu, mê tín.   Họ là biểu tượng của   sự chín chắn, là những   tấm gương đạo hạnh cho   con cháu noi theo. Họ    là niềm thương yêu trong   một xã hội có đạo    đức. Nơi xã hội có    đạo đức, người già phải    được lớp trẻ thương quý   kính trọng. Họ cũng cần   tu hành đúng hướng để    chuẩn bị cho sự ra    đi an lành không còn   xa. Tuy lớn tuổi, người   già cũng cần được hỗ    trợ để tiếp tục làm   các công đức cho đời   chứ không chỉ nghĩ tới   ngày chết và tìm về    nơi sung sướng. Còn làm    được gì cũng phải làm    để góp phần xây dựng   Phật Pháp nơi cõi này,   và lấy đó làm công    đức hành trang cho mai   sau.  
  Ta cũng nghĩ tới những   vùng đồng bào sắc tộc   xa xôi chưa có cơ    hội biết nhiều về Phật   Pháp mà có định hướng   giáo hóa thích hợp. Giáo   lý đó vừa phù hợp   với tâm tình đồng bào,   vừa đưa đồng bào tiến   lên dần với đời sống   văn minh tiến bộ. Đạo   Phật phải "phủ sóng" khắp   61 tỉnh thành, mọi lúc   mọi nơi không sót một   chỗ nào.  
  Ta cũng không quên nghĩ    tới các đất nước anh   em chưa biết nhiều về    Phật Pháp mà có sự    chuẩn bị dần dần. Ta   phải khuyến khích Tăng Ni   học ngoại ngữ thật giỏi    để sau này có cơ    hội là đưa Phật Pháp    đến với các đất nước   anh em trên thế giới.   Thật ra hiện nay Phật   giáo Việt Nam có nền    đạo lý vững chắc hơn   nhiều nước trên thế giới.   Nếu ta khéo sắp xếp   tổ chức thì sau này   nhiều người sẽ tìm về    Việt Nam để học giáo   lý chứ không phải Tăng   Ni Việt Nam ra ngoài   học lấy bằng nữa.  
  Một khía cạnh nho nhỏ    nhưng cũng làm ta vất   vả là khi ta thành   công thì sẽ có nhiều   người muốn gặp ta để    hàn huyên đàm đạo thăm   viếng. Nếu ta không tiếp   thì bị cho là cao   ngạo khinh người; nếu ai   ta cũng tiếp thì ta   sẽ không còn thời gian   nghỉ ngơi, soạn bài, nghiên   cứu, tu hành để tiếp   tục giảng giải nữa. Đây   là điều rất khổ tâm.   Người khỏe mạnh thì không   nói gì, người ốm yếu   mà bắt tiếp khách hoài   thì một tháng sau về    với Phật sớm.  
  Sự cân đối thời gian   giữa việc giao tiếp với   bên ngoài và việc tu   hành bên trong thật là   khó khăn. Ngoài ra có   khi vị giảng sư đó    đồ chúng phải dạy dỗ    hướng dẫn nữa. Càng thành   công chừng nào, ta càng   hiếm thời gian chừng nấy.   Thời gian thì ít, sức   khỏe thì bắt đầu kém,   công việc thì tăng lên,   sự đòi hỏi của Tăng   Ni Phật tử đối với   mình sẽ nhiều hơn... thật   là khó sắp xếp cho   vẹn toàn. Lúc này chỉ    có một cái dư thừa,    đó là thức ăn, nhưng   tiếc là lớn tuổi rồi   không ăn được nhiều nữa.  
  Nội dung bài học này   cho Tăng Ni một sự    chuẩn bị tinh thần để    không bị tự mãn vô   trách nhiệm hay mất đạo    đức một khi sự nghiệp   hoằng pháp của mình bắt    đầu thành công. Ta còn   phải cố gắng rất nhiều   vì con đường đi đến   Phật quả còn rất xa,   con đường hóa độ chúng   sinh còn mênh mông chưa   biết đâu là bờ bến...  
  Bài tập cho lần này   là Tăng Ni sẽ thuyết   trình 15 phút vào máy,   sẽ làm gì nếu sau   này không thành công nhiều,   sẽ làm gì nếu sau   này thành công lớn. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.1/10/2014.
 
No comments:
Post a Comment