Wednesday, October 1, 2014

Kinh Thiện Pháp Và Những Kỹ Năng Hoằng Pháp .


Sứ mạng cao cả hay trách nhiệm duy nhất của người xuất gia là tự giác ngộ lấy mình để có thể đem lại trí tuệ giác ngộ cho kẻ khác, tự giải thoát lấy mình để có thể cứu vớt kẻ khác. Một khi chưa có sự giác ngộ và chưa đạt được giải thoát thì tự thân của mỗi người xuất gia đã chưa hoàn thành sứ mạng cao cả của chính bản thân mình, điều mà trong kinh Tăng Nhất A-hàm nói là chưa đạt được mục đích tối thượng của thiện gia nam tử xuất gia học đạo, vậy làm sao có thể đem đến trí tuệ và cứu vớt cho kẻ khác? Do đó, muốn hoằng pháp lợi sanh, trước hết người hoằng pháp, dù là người hoằng pháp trong thời đại nào, cũng phải kiện toàn những phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm tu tập của mình, phải có được ít nhiều chất liệu giải thoát và an lạc thực sự. Nếu không thành tựu được những điều ấy, thì ít nhất cũng phải có được những kỹ năng nhất định, mà trong bài viết này chúng tôi tạm gọi là kỹ năng hoằng pháp, qua những điều kiện cần và đủ của một Tỳ-kheo muốn đạt được giải thoát trong kinh Thiện Pháp thuộc Trung A-hàm.
Bản kinh nêu lên bảy pháp mà bất kỳ một Tỳ-kheo nào thành tựu được cũng có an lạc, có khả năng hoằng pháp, đem đến lợi ích cho mọi người. Kinh ghi: “Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền thánh, thẳng đến lậu tận”. Bảy pháp đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết sự hơn kém của người.
Biết pháp
Biết pháp tức là biết thể loại của mười hai bộ kinh (Phạm: dvadasaga-buddha-vacana). Kinh ghi: “Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là Tỳ-kheo biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa”. 
Như vậy, pháp ở đây được hiểu là tất cả những lời Phật dạy được trình bày, sắp xếp thành 12 loại, mà chúng ta quen gọi là “thập nhị bộ chân kinh”. Đức Phật đề nghị một vị Tỳ-kheo phải nắm vững 12 thể loại kinh điển này, như vậy mới được gọi là Tỳ-kheo biết pháp, ngược lại là không biết pháp. Không biết pháp làm sao hoằng pháp? Tăng Nhất A-hàm (quyển 50) đề nghị chúng ta phải đọc tụng kinh pháp nếu muốn đạt được bổn nguyện, đồng thời còn đề nghị trong 12 bộ kinh ấy phải chọn lấy một kinh để hành trì tu tập.
Biết nghĩa
Nhưng tụng kinh mà không biết nghĩa thì cũng vô ích. Tăng Nhất A-hàm nói: “Tuy tụng tập pháp ấy mà không hiểu nghĩa lý. Do không quán sát nghĩa lý cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp đáng tuân theo lại không tuân theo, pháp không đáng tuân theo lại tuân theo”. Như vậy, tai hại của việc không hiểu nghĩa lý kinh điển Phật nói cái gì là không biết phải hành trì thế nào; mà không biết hành trì thì tự thân không có lợi lạc làm sao có thể hướng dẫn người khác tu học? Đó là chưa nói đến do không hiểu nghĩa lý kinh điển nên giảng giải sai lời Phật dạy, mang tội phỉ báng Tam bảo, còn gây nên tội phá kiến nữa. Cho nên, “phải biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này”. Nếu không hiểu phải lập tức thưa hỏi những bậc cao minh, những vị có kinh nghiệm tu chứng.
Biết thời
Biết thời, theo lời Phật dạy, là biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tĩnh chỉ; biết lúc nào nên thuyết pháp, lúc nào nên pháp đàm, lúc nào nên tu tập, lúc nào nên thiền định. Đây là kỹ năng sắp xếp thời khóa tu học sao cho hợp lý, phân bố thời gian tụng kinh, niệm Phật, kinh hành, nghe pháp sao cho hài hòa, thích hợp.
Biết tiết độ
Điều khác biệt giữa người tu với người thế tục trước hết là ở điểm này. Người xuất gia cũng phải ăn uống, ngủ nghỉ, nói năng… nhưng tất cả mọi hành vi cử chỉ sinh hoạt hằng ngày ấy đều được tiết độ, chừng mực và luôn trong trạng thái chánh niệm tĩnh giác, tức là thực hiện đời sống thiểu dục tri túc, (phải “tam thường bất túc”, tức đối với ba việc ăn, mặc, ngủ phải cực kỳ đơn giản, không nên quá tiện nghi, quá đầy đủ). Phật dạy: “Tỳ-kheo biết tiết độ là tiết độ trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí”. Đây là bài pháp thoại không lời, mà ta gọi là thân giáo. Những sinh hoạt hằng ngày, từ cử chỉ hành động đến lời nói, có thể biểu hiện được sức tu tập của một người xuất gia. Do đó, bài học thân giáo là bài học có giá trị giáo dục cao cả và thâm thuý nhất mà chúng ta không thể tìm thấy ở ngôn ngữ văn tự, sách vở hay từ trường lớp mà có được. Chỉ điều này thôi cũng đủ tạo cho vị giảng sư một thế đứng trong lòng thính chúng rồi.
Biết mình
Đây là kỹ năng tự đánh giá. Đức Phật liệt kê một số tiêu chuẩn để các Tỳ-kheo tự đánh giá mình, đó là: “Tỳ-kheo tự biết mình có mức độ ấy tín, giới, thí, tuệ, biện tài, a-hàm và sở đắc”. Nói cách khác là chúng ta phải tự biết khả năng, năng lực của chính bản thân mình, biết mình có sở trường, sở đoản, chuyên môn… trong lĩnh vực nào để dấn thân phụng sự hiệu quả. Trong những tiêu chuẩn mà Đức Thế tôn đưa ra, điều nào chúng ta cũng thấy quan trọng và cần thiết phải “phản quan tự kỷ”, nhất là lãnh vực a-hàm và sở đắc, tức là phải tự biết mình am hiểu bao nhiêu kinh, luật, luận, có sở đắc được pháp nào hay không? Rồi phải biết mình có biện tài hay không, tức là có năng khiếu thuyết giảng hay không.
Biết hội chúng
Là kỹ năng nắm bắt được thành phần, đối tượng thính pháp, đối tượng mình tiếp xúc, hay nơi mà mình đến, chỗ mà mình ở… có những người xuất thân từ giai cấp, hoàn cảnh, tôn giáo, dân tộc nào để tùy thuận và có phương pháp giáo hóa thích hợp. Kinh ghi: “Tỳ-kheo biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây là chúng Bà-la-môn, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy”.
Đây là một trong những yếu tố căn bản của Phật giáo mà các tôn giáo khác không có được. Đạo Phật không áp đặt niềm tin của tôn giáo mình lên tín đồ của tôn giáo khác, cũng không đả phá, bôi nhọ hay thực hiện những cử chỉ, lời nói, hành động, nghi thức xúc pháp đến tín ngưỡng của tôn giáo khác. Vì vậy, nhà hoằng pháp phải trang bị cho mình những kiến thức về tôn giáo cần và đủ để đi đến đâu mình cũng có những văn hoá ứng xử thích hợp. Phải nên nhớ rằng trong quá khứ, thầy tổ của chúng ta đem Đạo Phật đi đến đâu cũng dễ dàng hội nhập, dễ dàng được chấp nhận. Lịch sử phát triển của Đạo Phật đã cho thấy rõ điều đó. Ở bất cứ quốc gia nào Đạo Phật đi tới đều trở thành một phần của nền văn minh, một nét đẹp của nền văn hoá, như thêm một loài đẹp vào trong vườn hoa, làm cho xứ sở đó trở nên đa dạng, phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc mà không hề khập khiểng, lai căn, dị dạng hay chống trái.
Biết người
Biết người là kỹ năng nắm bắt được căn cơ trình độ, nắm vững tâm lý đối tượng nghe pháp, “biết người hơn kẻ kém, người thắng kẻ liệt, người đáng được khen ngợi, kẻ đáng bị chỉ trích…”
Đối với Phật tử, Đức Phật đề nghị chúng ta phải biết có hai hạng người: hạng người có niềm tin và hạng người không có niềm tin. Người có niềm tin là hơn, người không có niềm tin là kém. Nhưng người có niềm tin cũng có hai hạng: thường đến gặp Tăng Ni và không thường đến gặp Tăng Ni. Người đến gặp Tăng Ni lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ kính lại có hai hạng: có thưa hỏi Phật pháp và không thưa hỏi Phật pháp. Có thưa hỏi Phật pháp lại có hai hạng: nhất tâm nghe giảng và không nhất tâm nghe giảng. Nhất tâm nghe giảng cũng có hai hạng: nghe rồi thọ trì và nghe rồi không thọ trì pháp. Thọ trì pháp cũng có hai hạng: pháp có quán sát nghĩa và pháp không quán sát nghĩa. Nghe pháp có quán sát nghĩa lại có hai hạng: biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tuỳ pháp, tuỳ pháp thuận, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng đến pháp tùy pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp. Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tùy pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian, không cầu nghĩa lợi và lợi, không an ổn khoái lạc cho trời và người.
Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Tựu trung những điều trên là nói đến kỹ năng nhận biết một người Phật tử có bốn đức tính dự lưu hay không. Bốn đức tính đó là: thân cận thiện sĩ, thính văn chánh pháp, như lý tác ý, pháp tuỳ pháp hành. Nhận biết về một Phật tử như vậy không phải để rồi nghiêng về bên này bỏ bên kia, hay đề cao người này bôi xấu người kia… mà để có những phương pháp cụ thể để hướng dẫn cho họ tu tập, làm tăng thượng tâm cho người đã phát tâm và khiến cho người chưa phát tâm được phát tâm tu học.
Như vậy là bảy pháp, mà bất kỳ một ai, nếu thành tựu, đều được sống hoan hỷ và an lạc trong chánh pháp.
Thuở xưa, khi đức Phật còn tại thế, công tác hoằng pháp luôn được Đức Thế tôn quan tâm và khuyến khích các Tỳ-kheo lên đường truyền bá chánh pháp, nhưng cũng chỉ khi nào các Tỳ-kheo ấy đã thành tựu phạm hạnh, đã đoạn tận lậu hoặc. Đức Phật cảnh giác, thà thường ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo mà tư duy loạn tưởng, phạm giới, phá hoại Thánh chúng. Cho nên, mọi nỗ lực hoằng pháp đều chẳng thể đem đến kết quả tốt đẹp, nếu không muốn nói là chỉ tăng trưởng thêm ác tri kiến, nếu bản thân mỗi vị giảng sư không biết được những kỹ năng hoằng pháp. Đó là chưa nói đến những mục đích khác được che đậy trong mỹ từ “hoằng pháp vi gia vụ”.
Gần đây, người ta thường nêu lên những vấn đề cần và đủ cho tư cách một vị giảng sư, mà tựu chung, là để phù hợp, để theo kịp, để hoà nhập thời đại mới, đáp ứng nhu cầu tu học của con người mới, xã hội mới… vị giảng cần phải trang bị bằng cấp, học vị, ngoại ngữ, tin học, vân vân và vân vân. Thế nhưng, chúng ta quên một điều, là dù trong xã hội nào, xã hội thời Đức Phật còn tại thế hay xã hội hiện đại của chúng ta, và cả thời đại sau này nữa, nỗi khổ đau của con người, của chúng sinh nói chung, vẫn là chân lý về sự khổ (khổ đế), mà nguyên nhân của nó vẫn là tham, sân, si. Chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi là vì tham, sân, si… chứ không phải vì mù tin học, dốt ngoại ngữ, thiếu bằng cấp! Cái mà đạo Phật, và những người truyền bá đạo Phật, cho chúng sinh không có gì quan trọng hơn là một nhân cách đạo đức vô tham, vô sân, vô si, vô dục, vô cầu và những phương pháp để đạt được nhân cách đó.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.1/10/2014.

No comments:

Post a Comment