Monday, November 3, 2014

Các điều kiện cần và đủ của một giảng sư.

 

1. Tác phong và tư cách

Tác phong của một giảng sư là điều hết sức quan trọng. Trước khi làm giảng sư, là một tu sĩ Phật giáo thì oai nghi tế hạnh phải nằm lòng. Bởi giảng sư mà tác phong, oai nghi thô tháo chắc chắn không thu hút được quần chúng. Ngược lại, tư cách oai nghi tề chỉnh, trang nghiêm của giảng sư sẽ có khả năng chinh phục được khán giả, dễ dàng, ngược lại, thành công trong cương vị hoằng pháp.
Tư cách, tức là nhân cách cá nhân của một người mà nhất là người đó ở vị trí quan trọng của một tổ chức giảng sư, do đó, giảng sư là nhân vật quan trọng trong đạo Phật, là giảng sư. Người giảng sư dạy Phật pháp cho tín đồ thì tác phong, đạo đức tư cách phải chững chạc hơn người bình thường.

2. Ngôn ngữ và âm thanh

Ngôn từ tức là tiếng nói. Nhờ tiếng nói mà con người truyền thông những ý tưởng của mình cho người khác hiểu được. Trong cương vị giảng sư, vấn đề ngôn ngữ rất quan trọng. Có thể xác định tiếng nói qua 3 điểm sau đây:
+ Tiếng nói miền Bắc, miền Trung, miền Nam có khác nhau về âm điệu nhưng quan trọng là phải giữ đúng âm điệu của mỗi miền, không nên bắt chước. Người Nam học nói giọng Bắc, người Trung học nói giọng Nam khó nghe và khó chuyển tải giáo pháp đến thính chúng.
+ Giọng nói phải trong, khỏe, không kéo dài hoặc rề rà gây buồn ngủ cho thính giả. Đây là một nghệ thuật rất quan trọng, có thể vị giảng sư trình bày nội dung bài giảng rất súc tích nhưng ngược lại, âm điệu không hấp dẫn thì thời giảng cũng thất bại.
+ Âm thanh mà vị giảng sư sử dụng phải đầy đủ các cung bậc buồn, vui, mạnh dạn, tha thiết, mềm mại. Sử dụng âm thanh sao cho phù hợp với bối cảnh mà giảng sư muốn diễn đạt.

3 Giáo lý căn bản

Nói đến giáo lý nhà Phật thì không ai dám quả quyết mình lãnh hội hết hoàn toàn nội dung kinh điển của Đức Phật. Còn vấn đề hoằng pháp là chúng ta diễn giảng một phần của kinh điển. Nhưng quan trọng là giảng sư phải am tường phần giáo lý căn bản. Ngày xưa chúng tôi tham dự khóa đào tạo Đoàn Như Lai sứ giả, các vị giáo thọ chỉ trao các học viên những bài giáo lý căn bản như: nhân quả, luân hồi, duyên sinh, tứ đế, mười hai nhân duyên, lục độ, tứ nhiếp, tam bảo, ăn chay… những giáo lý căn bản cần thiết. Do sự hiểu biết của quần chúng Phật tử có giới hạn nên khi diễn giảng phải biết căn cơ và trình độ của họ mà truyền đạt thì mới thành công.

Chúng tôi muốn nhấn mạnh, căn bản giáo lý là vấn đề then chốt cho giảng sư. Muốn trình bày vấn đề đức tin của người Phật tử, chúng ta phải gieo vào tâm tư của người nghe giáo lý nhân quả thật chu đáo và rõ ràng thì họ mới tin tưởng. Không cần nói gì cao siêu hơn nếu họ không nhận thức được thì chúng ta thất bại.

4. Kiến thức phổ thông

Ngoài việc am tường nội minh là yếu tố không thể thiếu cho một vị giảng sư, vấn đề tiếp theo là kiến thức phổ thông như văn học, khoa học, đạo đức học, tôn giáo học, sử học... và nhiều đề tài khác thuộc lĩnh vực xã hội mà chúng ta cần quan tâm. Ví dụ như vấn đề toàn cầu hóa nạn khủng bố ở châu Phi, giảng sư cần phải có khả năng về thế học để áp dụng vào bài giảng khi cần chứng minh. Nếu chúng ta không am tường kiến thức phổ thông thì cũng trở ngại cho sự hoằng pháp.

Do đó, vị giảng sư cần phải đọc sách báo, xem tin tức quốc tế, tham khảo các tài liệu có liên quan đến tình hình Phật giáo quốc tế...

5. Sức khỏe dồi dào, tinh thần minh mẫn

Con người khi thân khỏe thì tâm dễ an. Đối với một vị giảng sư thì cả thân và tâm đều quan trọng. Không có sức khỏe thì không thể làm giảng sư được. Nếu giảng sư mà nay bệnh mai đau thì khó hoàn thành nhiệm vụ. Có sức khỏe sẽ thích thú và muốn thực hiện công việc. Không có sức khỏe sẽ khó thu thập được kiến thức về Phật pháp cũng như thế pháp. Tinh thần cũng vậy, cả hai phần sức khỏe và tinh thần hỗ trợ liên kết với nhau. Một giảng sư mà mang trong mình đủ loại bệnh thì làm sao có được tinh thần sáng suốt minh mẫn để hoàn thành sứ mạng hoằng pháp của mình.

6. Soạn bài giảng

Giảng sư không nên học thuộc lòng bài giảng mà chỉ cần thuộc dàn bài. Trong nghành hoằng pháp có câu nói nằm lòng “dắt con bỏ chợ”. Đã có vị giảng sư nói suốt 2 giờ đồng hồ mà không biết nói đề tài gì, làm cho thính giả hoang mang không hiểu được nội dung giảng sư muốn chuyển tải, đó là điều tai hại vô cùng. Vị giảng sư có thể nói 15 phút một đề tài cũng được mà 2 giờ nói một đề tài cũng xong, nhưng phải có chủ đề, có mở đề, chánh đề và kết luận. Cho nên soạn dàn bài để không lạc đề và giúp chúng ta lần lượt trình bày đầy đủ dù ngắn, dù dài.

Giảng sư mà học thuộc lòng bài giảng sẽ có hai trường hợp thất bại:
+ Thuộc lòng mà giảng giống như học sinh thuộc lòng trả bài cho thầy giáo thì không hấp dẫn.
+ Đang giảng mà quên thì bài giảng sẽ hỏng, không thể thu hút được quần chúng, chưa kể đến việc chính bản thân của giảng sư cũng mất tinh thần, không thể giảng được.

7. Thực sự yêu nghề

Tâm lý mà nói, nghề hoằng pháp nhiều người thích mà ít người làm được. Bởi phải hội đủ nhiều yếu tố nhất là nhớ dai, ngoại hình tương đối, lời nói dễ nghe, cuối cùng là yêu nghề. Khi chúng ta quyết định chọn ngành hoằng pháp thì phải cân nhắc mấy điểm sau đây:
+ Hoằng pháp không phải là nghề kinh doanh: khi đi giảng, nhất là vùng quê nghèo, họ cúng dường không đủ tiền xe cho giảng sư. Mình cho vấn đề kinh phí là quan trọng thì cũng dễ bỏ nghề. Đây là thực tế mà các vị giảng sư lâu năm đã kinh nghiệm. Hãy đặt mình vào cương vị hoằng pháp với mục đích truyền bá Chánh pháp và không đặt nặng thù lao ít nhiều. Hoằng pháp ở vùng xa xôi khó khăn, phương tiện đi lại không có, cũng dễ làm cho mình thối chí. Ở đây, cần phải tâm niệm nhiệm vụ của giàng sư là: “Nơi nào chúng sinh cần thì con đến. Nơi nào đạo pháp cần con đi. Không kể gian lao, không từ khó nhọc”.
+ Hoằng pháp là ngành dễ chán nhất. Trừ các vị thâm niên có nhiều kinh nghiệm, còn phần nhiều các vị trẻ mới ra trường, đi giảng ở các tỉnh, khi bị các trưởng lão phê bình hoặc rầy la những sơ hở trong nội dung bài giảng thì dễ sinh tự ái hoặc bị cư sĩ vấn nạn không giải đáp được cũng nản chí bỏ ngành.

8. Khiêm cung giản dị

Tư cách của giảng sư là giản dị, tánh giản dị thường được mọi người cung kính. Chúng ta tìm về quá khứ các vị giảng sư, pháp sư nổi tiếng đều có phong cách giản dị. Đạo đức càng cao thì lối sống càng bình dị. Vị giảng sư không nên kiểu cách trong ăn mặc, dễ làm mất giá trị của mình.

Kế đến là tánh khiêm nhường cung kính. Đối với bậc trưởng thượng, chúng ta cung kính lễ bái để được học hỏi điều hay, chỗ tốt. Đối với bậc hạ, tức là nhỏ thấp hơn mình, thì phải hạ mình nhường nhịn. Tánh tình khiêm hạ ai ai cũng thương mến và gần gũi, còn tự cao tự đại thì không thuyết phục được mọi người.

Đức khiêm cung có 3:
+ Đừng thấy mình là giảng sư cao quý, mọi người khác thua mình. Chúng ta thấy Ngộ Đạt quốc sư đang thuyết pháp mà oan hồn báo oán dễ dàng.
+ Mình hòa đồng với mọi người thì mọi người kính trọng mình, theo học hỏi với mình, mình có lợi mà họ cũng có lợi. Việc khiêm cung đã bao hàm tính tư lợi và tính đa lợi.
+ Cung kính bậc tôn túc thì chúng ta có phước đức, được các ngài khen ngợi thì môn hạ của ngài cũng cung kính chúng ta.

9. Không bài bác các tông phái khác

Như chúng ta biết, trong đạo Phật có 10 tông phái, mỗi tông phái có cách hành trì riêng nhưng kết quả đều hướng đến mục tiêu giải thoát. Bản thân giảng sư cũng chỉ chọn cho mình một tông phái để tu hành vì mình không thể am tường hết tất cả 10 tông phái.

Nhìn khách quan thì 10 tông hay nhiều hơn nữa cũng chỉ là phương tiện của Đức Phật và tâm bệnh của chúng sinh. Phật dạy: “Chúng sinh đa bệnh, Phật thuyết đa môn”. Làm giảng sư, tuyệt đối không được khinh bác, xuyên tạc các tông phái khác. Ví dụ: mình chọn Thiền tông để hành trì thì không được xuyên tạc Mật tông hay Tịnh Độ tông. Đây là vấn đề nghiêm cấm trong ngành hoằng pháp. Tôi tu pháp môn Tịnh độ, có ai hỏi về cách thức tu thiền tôi vui vẻ trả lời “quý vị hoan hỷ đến thiền viện nhờ các thiền sư am tường và chỉ dẫn quý vị, tôi tu Tịnh độ không thông suốt về Thiền”. Trong kinh Bách Dụ có chép “hai đệ tử bất hòa khiến lão sư bị đập gãy hai chân”. Thiền Tịnh chống báng nhau cuối cùng thì có hại cho đạo chúng. Ngài ra, vị giảng sư cũng không được bài xích giáo lý các tôn giáo khác.

10. Không nói đến chính trị

Giảng sư làm trách nhiệm tuyên dương Phật pháp, đi khắp cùng đất nước mục đích là đem Phật pháp truyền bá hầu mong Chánh pháp của Đức Phật được mọi người tu tập chuyển hóa nội tâm, tạo cho cuộc sống hiện tại được an lạc, đời vị lai khỏi đọa vào ác đạo. Cho nên vấn đề quốc sự, chính trị tuyệt đối không được đưa vào nội dung bài giảng. Phạm chính trị là phạm “ Nội quy Ban Tăng sự Trung ương”, có lỗi với Giáo hội và pháp luật của Nhà nước.

Vấn đề thời sự quốc tế chúng ta cần am tường, có thể trao đổi ngoài thời gian thuyết pháp với tư cách khách quan mà thôi. Các vị giảng sư nên cố gắng chú ý điều này.

11. Kết luận:

Chúng tôi cố gắng trình bày nội dung bài tham luận hôm nay tuy chưa đầy đủ lắm, nhưng cũng góp phần chia sẻ những kinh nghiệm của mình ngõ hầu đóng góp cho ngành hoằng pháp ngày càng phát triển.

Kính chúc buổi tọa đàm hôm nay thành công tốt đẹp, chúc các vị đại biểu thân tâm thường lạc, công tác hoằng pháp của chúng ta ngày càng tiến bộ hơn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.4/11/2014.

No comments:

Post a Comment